Tên gọi khác: Bru, Vân Kiều.
Nhóm địa phương: Vân
Kiều, Trì, Khùa, Ma Coong.
Dân số: 74.506 người (theo kết quả điều tra dân số
năm 2009 )
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc
nhóm ngôn ngữ Môn- Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), gần gũi với Tiếng Tà Ôi, Cơ Tu. Chữ
viết mới hình thành theo cách phiên âm bằng chữ cái Latinh. Giữa các nhóm có một
số từ vựng không giống nhau.
Lịch sử: Họ thuộc số dân cư được coi là
có nguồn gốc lâu đời nhất ở vùng Trường Sơn.
Hoạt động sản xuất: Canh tác rẫy, trồng lúa là
chính; nông cụ đơn giản: rìu, dao quắm, gậy trỉa, cái nạo cỏ có lưỡi cong. Cách
thức sản xuất: phát rừng, đốt, rồi chọc lỗ gieo hạt giống, làm cỏ, tuốt lúa bằng
tay; đa canh - xen canh trên từng đám rẫy kéo dài hàng năm từ tháng 3 đến tháng
10. Ngoài trồng các giống lúa tẻ, nếp, còn trồng sắn, bầu, chuối, cà, dứa,
khoai mía v.v... Rừng và sông suối cung cấp nhiều thức ăn cùng nguồn lợi khác.
Chăn nuôi trâu (về sau có cả bò), lợn, gà, chó là phổ biến.
Nghề thủ công không phát triển.
Quan hệ trao đổi hàng hoá chủ yếu với người Việt và người Lào.
Ăn: Người Bru-Vân Kiều thích các món nướng. Canh thường nấu lẫn
rau với gạo và cá hoặc ếch nhái. Họ ăn cơm tẻ thường ngày; khi lễ hội, cơm nếp
nấu trong ống tre tươi; quen ăn bốc, uống nước lã, rượu cần (nay rượu cất là
thông dụng). Nam nữ đều hút thuốc lá, tẩu bằng đất nung hoặc làm từ cây le.
Mặc:Theo phong tục, nam đóng khố, nữ mặc váy, còn áo không
có tay, mặc chui đầu. Vải chủ yếu mua ở Lào. Y phục kiểu người Việt thời nay đã
trở thành phổ biến, tập quán mặc váy vẫn được bảo lưu. Trước kia thường dùng vỏ
cây rừng đập dập lấy xơ để che thân.
Ðồ trang sức thường đeo là các loại vòng ở cổ,
tay, khuyên tai. Xưa đàn ông, đàn bà đều búi tóc, riêng thanh nữ búi lệch tóc về
phía bên trái, khi đã có chồng tóc được búi trên đỉnh đầu
Ở: Người
dân tộc Bru-Vân Kiều sống ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên thuộc miền tây các tỉnh
Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế, Quảng Bình. Mỗi làng là một điểm cư trú quần tụ. Mỗi
gia đình có nhà riêng, ở nhà sàn, bếp lửa bố trí ngay trên sàn nhà, kiêng nằm
ngang sàn. Nhóm Trì, Khùa, Ma Coong nhà thường ngăn thành buồng làm chỗ ngủ
riêng cho vợ chồng gia chủ, cho bố mẹ già (nếu có), cho con đã lớn.
Phương tiện vận chuyển: Người dân tộc Bru-Vân Kiều dùng
các loại gùi, đeo gùi sau lưng, 2 quai gùi quàng vào đôi vai. Chiếc gùi gắn bó
khăng khít với mỗi người như hình với bóng, là vật dụng vận tải đa năng.
Quan hệ xã hội: Dân làng thuộc các dòng họ
khác nhau, cùng sinh sống trên một địa vực, trong đó đất trồng trọt thuộc về từng
gia đình, kể cả khi bỏ hoá. Người "già làng" có vai trò quan trọng đối
với đời sống của làng. Sự giàu-nghèo hình thành, nhưng hầu hết các hộ trong
làng tương đối khác biệt nhau. Tài sản được xác định bằng chiêng, cồng, ché, nồi
đồng, trâu v.v...
Hiện tượng người bóc lột người
không phổ biến.
Ðan lát là công việc dành riêng cho đàn
ông. Họ cho ra đời các loại gùi, giỏ và nhiều đồ gia dụng cần thiết khác. Chiếc
gùi trong ảnh được đan bằng mây, dùng vào việc đi lấy củi, lấy nước... phục vụ
cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày.
Cưới xin:Cô dâu về ở đằng nhà chồng, nhà
trai tổ chức cưới vợ cho con và phải biếu đồ sính lễ cho nhà gái, trong đó có
thanh kiếm và thường cả chiếc nồi đồng nữa. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng còn phải
làm "lễ cưới" lần thứ 2 khi có điều kiện về kinh tế, gọi là lễKhơi,
để người vợ chính thức được coi là thành viên dòng họ nhà chồng. Theo tục lệ,
việc con trai cô lấy con gái cậu được khuyến khích, việc kết hôn giữa vợ goá với
anh hoặc em chồng cũng như giữa chồng goá với chị hoặc em vợ đều được chấp thuận
và khi dòng họ A đã gả con gái cho dòng họ B thì dòng họ B không gả con gái cho
dòng họ A nữa.
Sinh đẻ: Phụ nữ khi mang thai kiêng ăn
thịt các con vật sa bẫy, không bước qua cây nằm ngang đường v.v... Họ đẻ con tại
nhà, có bà mụ vườn đỡ đẻ. Trẻ sơ sinh được đặt tên sau vai ba tháng, phải tránh
trùng với tên của người đã khuất trong dòng họ, nhưng thường các tên trong nhà
được đặt cùng vần nhau.
Hút thuốc lá là thói quen phổ biến ở đàn
ông và đàn bà Bru - Vân kiều
Ma chay: Tử thi ở nhóm Vân Kiều được đặt
năm ngang sàn nhà, chân hướng về phía cửa sổ, ở các nhóm Khùa và Ma Coong thì tử
thi được đặt dọc sàn, chân hướng về phía cửa chính. Sau 2-3 ngày mới đưa ma,
chôn người chết vào bãi mộ chung của làng. Quan tài gỗ đẽo độc mộc, gồm hòm và nắp;
xưa kia có nơi người chết được bó trong vỏ cây hoặc tấm đan bằng giang, nứa. Chọn
đất đào huyệt theo cách dùng trứng gà thả rơi, vỡ trứng là được. Tang gia trước
khi mai táng mỗi ngày cúng cơm đặt thức ăn vào miệng tử thi 3 lần (sáng, trưa,
tối), khi chôn cất phải dành phần cho người chết nhiều thứ từ đồ mặc đến vật dụng
thông thường và cả giống mía, ngô, khoai môn, v.v...
Không biết dệt vải, nhưng trước đây trong
những ngày lễ tết, hội hè, phụ nữ Bru - Vân kiều lại có bộ y phục khá hoàn chỉnh,
với váy và áo dài tay thường được mua từ bên kia biên giới Việt - Lào.
Thờ cúng: Người Bru-Vân Kiều chú trọng thờ
cúng tổ tiên. Theo họ, hiện thân của "linh hồn" các thân nhân quá cố
là những mảnh nồi, mảnh bát v.v... đặt trong chòi nhỏ dựng riêng. Có nơi thờ
cúng cả thần bản mệnh: mỗi người trong gia đình có một chiếc bát đặt chung trên
bàn thờ tại nhà. Người ta rất tin và các "thần linh" (Yang):
thần lúa, thần bếp lửa, thần núi, thần đất, thần sông nước v.v... Ma gia đình đằng
vợ (Yang cu gia) cũng được con rể thờ cúng.
Lễ tết: Người dân tộc Bru-Vân Kiều
có nhiều lễ cúng khác nhau trong quá trình canh tác lúa rẫy nhằm cầu mùa, gắn với
các khâu, phát, trỉa và thu hoạch. Ðặc biệt lễ thức trước dịp trỉa lúa diễn ra
như một ngày hội của dân làng. Trong một đời người, mỗi người cũng có hàng loạt
nghi lễ cúng quải về bản thân mình: khi ra đời, lúc đau ốm, khi qua đời, lúc
thành hôn v.v... Lễ cúng có đâm trâu là lễ trọng nhất. Tết đến từng làng sớm muộn
khác nhau, nhưng đều vào thời gian sau kỳ tuốt lúa.
Người Bru - Vân kiều thường chọn những
khoảng đất tương đối bằng phẳng làm nơi cư trú. Nhà có sàn cao, mái tròn ở đầu
hồi, dựng quây quần quanh sân chung của làng. Lối kiến trúc truyền thống này ít
nhiều còn được duy trì đến ngày nay.
Lịch: Họ căn cứ vào mặt trăng để định ra
các ngày và tên ngày trong tháng. Quan niệm có những ngày tốt (nhất là mùng 4,
7, 9) và những ngày xấu (nhất là 30 và mùng 1). Mỗi năm, lịch nông nghiệp
Bru-Vân Kiều gồm 10 tháng, tiếp đến thời kỳ nghỉ ngơi, chơi bời trước khi bước
vào mùa rẫy mới.
Văn nghệ: Người dân tộc Bru-Vân Kiều có
nhiều truyện cổ được truyền miệng, kể về sự tích các dòng họ, nguồn gốc dân tộc,
về đề tài người mồ côi v.v... Có các điệu hát như: Oát là loại
hát đối đáp giao duyên. Prdoak là hát chúc vui, chúc tụng khi
có việc mừng.Xươt là hát vui trong các sinh hoạt vui đùa đông người. Roai
tol, Roai trong là loại hát kể lể nặng nề, oán trách. Adâng
kon là hát ru trẻ con. Trong đám ma và lễ hội đâm trâu thường có múa kết
hợp với hát. Nhạc cụ phổ biến là: cồng, chiêng, đàn Achung, Plư, Ta-lư,kèn Amam,
Ta-ral, khèn Pi, nhị, đàn môi, trống, sáo.
Huyền Chư (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét