Tên tự gọi: Cờ Lao.
Tên gọi khác: Tứ Ðư, Ho Ki, Voa Ðề.
Nhóm địa phương:Cờ Lao Xanh, Cờ Lao Trắng, Cờ Lao Ðỏ.
Dân số: 2.636 người (theo kết quả điều tra dân số
năm 2009 của Tổng cục thống kê)
Lịch sử: Người Cờ Lao chuyển cư tới Việt
Nam cách đây khoảng 150 - 200 năm.
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka
Ðai, cùng nhóm với tiếng La Ha, La Chí, Pu Péo (ngữ hệ Thái - Ka Ðai). Trước
đây, các nhóm địa phương có phương ngữ khác nhau nhưng hiện nay đa số người Cờ
Lao Ðỏ, Cờ Lao Xanh không còn nói được tiếng mẹ đẻ của mình nữa. Tuỳ theo quá
trình tiếp xúc, cộng cư họ quen sử dụng tiếng Quan hoả, tiếng Nùng hay tiếng Pu
Péo, Hmông.
Hoạt động sản xuất:Bộ phận người Cờ Lao ở vùng cao núi
đá tai mèo chủ yếu làm nương cày, thổ canh hốc đá. Ngô là cây lương thực chính.
Trên nương họ còn trồng đậu răng ngựa, lúa mạch, đậu Hà lan, su hào... Người Cờ
Lao có truyền thống dùng phân chuồng, phân tro và nhiều kinh nghiệm sử dụng
phân bón trên nương. Phân tro được bón vào từng hốc khi tra ngô.
Bộ phận người Cờ Lao ở vùng núi đất
chuyên sống bằng nghề làm ruộng bậc thang, lúa là cây lương thực chính. Nghề thủ
công truyền thống là đan lát (nong, bồ, phên, cót...) và làm đồ gỗ (bàn, hòm,
yên ngựa, quan tài, các đồ đựng bằng gỗ). Nhiều làng có thợ rèn sửa chữa nông cụ.
Ăn: Tuỳ nơi, họ ăn ngô chế thành bột mèn mén hoặc ăn
cơm, quen dùng bát, thìa muôi bằng gỗ.
Mặc: Phụ nữ mặc áo cùng loại với áo người Nùng, Giáy
nhưng dài quá gối áo được trang trí bằng những miếng vải đáp trên hò áo, ngực,
tay áo. Trước đây người Cờ Lao Trắng, Cờ Lao Xanh còn mặc thêm chiếc áo ngắn
tay ra ngoài áo dài để phô những miếng vải mầu đắp trên tay áo trong, chân cuốn
xà cạp.
Ở: Người Cờ Lao thường sống thành từng làng khoảng 15 -
20 nóc nhà ở vùng núi đất huyện Hoàng Su Phì, hoặc núi đá tai mèo ở huyện Ðồng
Văn (Hà Giang). Nhà ba gian hai trái, mái lợp cỏ gianh hoặc các ống vầu, nứa bổ
đôi xếp úp ngửa. Người Cờ Lao Ðỏ làm nhà trình tường như người láng giềng Pu
Péo.
Phương tiện vận chuyển: Dùng ngựa để thồ hàng là một
phương tiện vận chuyển phổ biến của người Cờ Lao. Họ quen dùng địu đan bằng
giang có hai quai đeo vai. Hàng ngày họ phải địu nước về nhà; ở vùng núi đất,
dùng máng lần đưa nước về đến tận nhà hay gần nhà.
Quan hệ xã hội: Mỗi nhóm Cờ Lao thường có
dòng họ khác nhau như các họ Vần, Hồ, Sếnh, Chảo (Cờ Lao Trắng), Min, Cáo, Sú
Lý (Cờ Lao Ðỏ), Sáng (Cờ Lao Xanh). Gia đình nhỏ phụ hệ là phổ biến. Nếu nhà
không có con trai, người ta thường lấy rể về ở rể. Con rể vẫn giữ họ của mình
nhưng có quyền thừa kế tài sản nhà vợ. Người ở rể có bàn thờ tổ tiên mình và
bàn thờ bố mẹ vợ.
Cưới xin: Tục lệ cưới xin khác nhau giữa
các nhóm. Chú rể Cờ Lao Xanh mặc áo dài xanh, cuốn khăn đỏ qua người. Cô dâu về
đến cổng phải dẫm vỡ một cái bát, một cái muôi gỗ đã để sẵn trước cổng. Cô dâu
Cờ Lao Ðỏ chỉ ngủ lại nhà chồng đêm hôm đón dâu. Cách cưới kéo vợ hay cướp vợ
như người Hmông vẫn thường xảy ra.
Phụ nữ Cờ Lao mặc áo dài đến gối. Trên hò
ngực và tay áo đắp thêm vải màu. Hiện nay chiếc áo trong với ống tay dài vẫn
còn được sử dụng, còn chiếc áo ngoài với ống tay ngắn trở nên hiếm hơn.
Sinh đẻ: Người Cờ Lao không có tục chôn
hay treo nhau đẻ lên cây mà thường đem đốt, rồi bỏ tro than vào hốc đá trên rừng.
Con trai được đặt tên sau 3 ngày 3 đêm, con gái 2 ngày 3 đêm, ở một số nơi trẻ
được đặt tên khi đầy tháng. Trong lễ đặt tên cúng tổ tiên và thần Ghi Trếnh, vị
thần bảo vệ trẻ em, theo phong tục, bà ngoại đặt tên và tặng cháu quà.
Ma chay: Trong tang lễ có phong tục làm ma
hai lần: lễ chôn người chết và lễ làm chay. Ở NGƯỜI CỜ LAO XANH LỄ làm chay có
thể tiến hành ngay hôm chôn hay một vài năm sau. Người chết được cúng đưa hồn về
Chan San, quê hương xưa. Người Cờ Lao Ðỏ có phong tục xếp đá quanh mộ, cứ 10 tuổi
lại xếp một vòng đá. Các vòng đá tuổi được phủ kín đất; trên cùng lại xếp thêm
một vòng đá nữa.
Thiếu nữ Cờ Lao với chiếc khăn cải tiến
theo kiểu người H'Mông láng giềng.
Thờ cúng: Người Cờ Lao tin mỗi người có 3 hồn;
lúa, bắp và gia súc cũng đều có hồn. Hồn lúa (hồn lúa bố, hồn lúa mẹ, hồn lúa vợ
và hồn lúa chồng) được cúng mỗi khi gặt xong và cúng vào dịp Tết 5 tháng 5. Tổ
tiên được thờ 3 hay 4 đời. Thần đất là vị thần quan trọng được gia đình và toàn
bản thờ cúng.
Lễ tết: Người Cờ Lao ăn Tết Nguyên
đán, Tết Mùng 3 tháng 3, mùng 5 tháng 5, 15 tháng 7 và mùng 9 tháng 9 âm lịch như
nhiều dân tộc ở vùng đông bắc Việt Nam.
Học: Chữ Hán được sử dụng phổ biến trong việc cúng lễ.
Ngày nay như các dân tộc khác trong cả nước, học sinh được học tiếng Việt và chữ
phổ thông.
Hồng Hạnh (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét