Dân tộc Lự (Vi Đức Hồi)

Tổng số ân: 222.000 +
Khu vực có số dân đáng kể: Lào (134.100), Thái Lan (83.000), Việt Nam (5.553), Lai Châu, Lâm Đồng, Trung Quốc (?)
Ngôn ngữ: Tiếng Lự, tiếng Thái, tiếng Lào, tiếng Việt, khác
Tông giáo: Phật giáo

Người dân tộc Lự, còn gọi là người Lữngười Nhuồnngười Duồn, là một dân tộc ít người sinh sống trong khu vực Thái Lan, Lào,Việt Nam và Trung Quốc.
Tiếng nói chính thức của người Lự là tiếng Lự, là ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái, hệ ngôn ngữ Tai-Kadai. Tuy nhiên, tại các quốc gia họ sinh sống, họ có thể sử dụng các ngôn ngữ chính thức tại mỗi quốc gia.
Dân số và địa bàn cư trú
Tại Lào
Tại Lào, theo ước tính của Ethnologue[1] thì có khoảng 134.100 người Lự (Ethnologue ghi là năm 2000) sinh sống tại các tỉnh Phongsali, Luang Namtha, Bokeo, Oudomxai, Xaignabouli, Luang Prabang.
Tại Thái Lan]
Tại Thái Lan, theo ước tính của Ethnologue thì có khoảng 83.000 người Lự (Ethnologue ghi là theo ước tính năm 2001 của Johnstone và Mandryk) sinh sống tại các tỉnh Chiang Rai, Phayao, Lamphun, Nan và khắp miền bắc Thái Lan.
Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, người Lự được công nhận là dân tộc thiểu số trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.
Dân số theo điều tra dân số 1999 là khoảng 4.964 người. Cư trú chủ yếu tập trung ở hai huyện Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu và một lượng đáng kể di cư vào tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên, theo ước tính năm 2003 của Ủy ban dân tộc Việt Nam thì dân tộc này có dân số 5.553 người.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Lự ở Việt Nam có dân số 5.601 người, cư trú tại 21 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Phần lớn người Lự cư trú tập trung tại tỉnh Lai Châu (5.487 người, chiếm 98,0% tổng số người Lự tại Việt Nam), Thái Nguyên (75 người), các tỉnh còn lại có không quá 10 người[5].
Tại Trung Quốc
Tại Trung Quốc, họ dược coi là một phần của dân tộc Thái.
Đặc điểm kinh tế
Người Lự có truyền thống làm ruộng từ lâu đời. Họ biết dùng cày bừa, đào mương dẫn nước, gieo mạ, cấy lúa, nhưng lại không làm cỏ, bón phân. Họ còn làm thêm nương để trồng lúa, ngô, khoai, sắn, lạc, bông, chàm và nhà nào cũng có vườn cạnh nhà. Người Lự có tập quán ăn cơm nếp là chính, thích ăn ớt, ưa uống nước chè và đàn ông thường hút thuốc lào. Trong các nghề phụ của người Lự thì nghề dệt phát triển nhất. Mỗi gia đình người Lự thường có vài ba khung cửi. Tài nghệ dệt, may, thuê đều khá cao, từ chiếc quần của đàn ông cho đến váy, áo, khăn của phụ nữ thường có hoa văn trang trí rực rỡ trên nền vải nhuộm chàm, nhất là trang phục ngày lễ hội càng được tranh trí nhiều và đẹp hơn.
Hôn nhân gia đình]
Trai gái Lự được tìm hiểu nhau tự do rồi xin ý kiến cha mẹ để kết hôn, nhưng họ phải nhờ thầy số xem tuổi trước, nếu hợp tuổi mới lấy nhau. Con trai phải ở rể vài ba năm rồi ra ở riêng. Con lấy họ theo cha, tên con trai có chữ đệm Bạ, tên con gái có chữ đệm Yý. Người Lự sống tình nghĩa, thủy chung. Vợ chồng rất ít ly dị nhau, nếu trai bỏ vợ, gái bỏ chồng đều bị phạt nặng theo tập tục.
Tục lệ ma chay
Sau khi chôn cất người chết một thời gian, tang gia làm một mái nhà táng giấy có trang trí đẹp rồi bỏ vải, đệm, gối, thóc, tiền vào đó để làm lễ đưa linh hồn người chết vào chùa.
Văn hóa
Người Lự hay hát dân ca "khắp", yêu thích vốn truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, các loại sáo, nhị, trống...
Nhà cửa
Người Lự ở nhà sàn, hai mái, mái phía sau ngắn, còn mái phía trước kéo dài xuống che cho cả hàng hiên và cầu thang. Cửa ra vào ở hướng Tây Bắc. Trong nhà có hai bếp, một bếp để nấu ăn và một bếp để đun nước tiếp khách.

V i Đức Hồi sưu tầm (trích Bách khoa toàn thư)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét