Kèn đực và kèn cái là loại nhạc cụ thường được thổi trong
các đám cưới của người Cờ Lao.
Người Cờ Lao xã
Túng Sán, huyện Hoàng Su Phì là một trong hai nhóm người Cờ Lao hiện đang sinh
sống trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Theo tài liệu ghi chép cho thấy, nhóm
người Cờ Lao xã Túng Sán thuộc nhóm Cờ Lao Đỏ có nguồn gốc từ tỉnh Quý Châu
(Trung Quốc) di cư sang Việt Nam đến nay khoảng 150 - 250 năm. Về tên gọi, người
Cờ Lao xã Túng Sán thường tự gọi là "Kề Lau" theo phiên âm Hán ngữ là
"Kưa Lảo"; về ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Ka - đai. Hiện nay, dân số
của dân tộc này theo thống kê chỉ còn trên dưới 1.000 người.
Người Cờ Lao xã Túng Sán cho rằng, cưới hỏi là điều kiện để
duy trì nòi giống, việc làm bắt buộc của mỗi người khi đến tuổi trưởng thành và
sự lựa chọn hôn nhân là quyền của đôi trai gái. Vào những dịp cuối năm, các
chàng trai, cô gái người dân tộc Cờ Lao đến tuổi trưởng thành thường dành thời
gian rỗi, nhất là những đêm mưa gió, để tìm đến nhà nhau tâm sự và hát giao
duyên, nhiều khi thâu đêm suốt sáng. Thường sau khoảng một tuần trăng thì người
con gái mới nhận lời tỏ tình của người con trai. Đến mùa xuân năm sau, khi được
sự đồng ý của đôi trai gái thì gia đình nhà trai mang lễ vật gồm một bao thuốc
lá hoặc một bó thuốc lá tự trồng đến xin bố mẹ cô gái cho hai người chính thức
được đi lại tìm hiểu nhau. Bố mẹ cô gái gọi con gái đến và hỏi ý kiến trực tiếp,
nếu cô gái đồng ý thì nhà gái cho phép nhà trai được tiến hành các bước tiếp
theo, trong đó điều quan trọng nhất là thống nhất thời gian nhà trai đến ăn hỏi
chạm ngõ.
Đến ngày ăn hỏi như hai nhà đã thống nhất, nhà trai mang
khoảng 5kg gà và 5 ống gạo đến nhà gái để ăn hỏi. Thành phần gồm có: Bố mẹ, chú
rể và một thành viên trong gia đình (thường là em gái chú rể). Khi đến nhà gái,
nhà trai tự mổ gà nấu cơm cùng nhà gái ăn cơm, vừa ăn vừa bàn thời gian tổ chức
đám cưới và các lễ vật nhà trai phải đem đến nhà gái trong ngày cưới (bữa cơm
này có cả anh em chú bác nhà gái đến dự và bàn bạc). Sau bữa cơm này thì đôi
trai gái đã được coi như là vợ chồng.
Trước ngày cưới một ngày, nhà trai thành lập một đoàn gồm
10 - 15 người, trong đó, bà mối làm trưởng đoàn (nếu không có bà mối thì chú ruột
hoặc một người trong họ tộc có khả năng giao tiếp làm trưởng đoàn) để mang lễ vật
đến nhà gái làm thủ tục xin dâu. Thành phần này không có chú rể hoặc bố mẹ chú
rể. Khi đoàn đón dâu đến, nhà gái tổ chức đón nhận lễ vật và lá thư viết trên tờ
giấy đỏ của bố mẹ chú rể. Nội dung thư thống nhất thời gian đưa đón dâu đúng giờ
đã định. Sau bữa cơm tối, bà mối thắp hương cắm lên bàn thờ nhà gái và vái 3
vái, sau đó đến lượt cô dâu thắp hương và vái tổ tiên, vái xong, cô dâu rót lần
lượt 4 chén rượu hoặc trà pha đường để bố mẹ cô dâu đi mời khách dự lễ cưới
theo thứ tự vai vế và tuổi tác từ trên xuống dưới, sau đó đến lượt cô dâu đi mời
và xin bố mẹ, ông bà, chú bác dạy bảo lần cuối trước khi về nhà chồng, đồng thời
nhận tặng phẩm của mọi người.
Đến hôm sau, đoàn đón dâu rước cô dâu về nhà trai. Trên đường
đi về nhà chồng, cô dâu được phù dâu che bằng một chiếc ô phía trên có bọc một
lớp vải màu đỏ. Khi đoàn đưa dâu sắp về đến cửa thì thầy cúng sắp một mâm gồm một
chai rượu, 3 chiếc chén, 3 nén hương và một con gà trống để cúng đuổi tà ma.
Sau khi thầy cúng làm lễ đuổi tà xong thì cô dâu được vào nhà và chủ nhà - thường
là bố đẻ chủ rể - thắp hương cho con trai vái tổ tiên, trong khi cô dâu ngồi
bên cạnh (vị trí ngồi của cô dâu căn cứ theo tuổi, nếu hợp hướng nào thì ngồi về
hướng đó).
Sau khi chú rể vái tổ tiên xong, cô dâu được phù dâu và bà
mối đưa vào buồng nhận buồng cưới. Ngay sau đó, các hoạt động ăn uống, hát hò
được diễn ra và kéo dài đến tối. Trong lúc ăn, mọi người thường hát những bài
hát truyền thống như: Mời rượu, Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài; Sáng cố (kể về nguồn
gốc loài người)... và các bài hát đối được ứng tác tại mâm rượu. Lúc này, bà mối
thắp hương cắm lên bàn thờ và vái 3 lần, sau đó, chú rể thắp hương, vái tổ tiên
rồi rót lần lượt 4 chén rượu hoặc trà pha đường để bố mẹ đi mời khách dự lễ cưới
theo thứ tự vai vế và tuổi tác từ trên xuống dưới. Sau đó đến lượt chú rể cùng
cô dâu đi mời giống như cô dâu đã làm ở nhà gái và xin bố mẹ, ông bà, chú bác dạy
bảo những điều hay lẽ phải và nhận tặng phẩm của mọi người tặng cho đôi trai
gái, nhiều ít tùy tâm mỗi người.
Ngày nay, mặc dù tình trạng lãng phí, ăn uống linh đình
trong cưới xin có chiều hướng khá phổ biến ở nhiều nơi, nhưng đám cưới của người
Cờ Lao xã Túng Sán, huyện Hoàng Su Phì vẫn được tổ chức đơn giản và đầy ý nghĩa
như xưa. Đây cũng là một trong những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam mà chúng ta cần bảo tồn và lưu giữ.
Minh Hằng (sư tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét