Người dân tộc H’Mông còn gọi là người Miêu hay Mèo, ngôn
ngữ thuộc nhánh Miêu – Dao, hệ Hán – Tạng. Tại huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, người
dân tộc H’Mông có hai nhánh là H’Mông trắng và H’Mông hoa. Người dân tộc
H’Mông ở đây có các họ Vừ, Hạ Mùa, Xùng, Lầu, Và, Cự, Tra, Thò, Giàng, Dành và
Kha. Các dòng họ sống đoàn kết và hợp quần bên nhau thành bản làng. Họ bảo tồn
được nhiều vốn văn hóa truyền thống, từ kiến trúc nhà ở tới phong tục tang ma,
cưới hỏi, lễ hội và trang phục. Tại tỉnh Nghệ An có khoảng 28.734 ngườidân tộc
H’Mông chiếm gần 7% số dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh và chiếm gần 1% dân số
toàn tỉnh.
Tra kênh (khèn
bè) là một nhạc cụ hơi thổi, dùng trong tang ma và một số sinh hoạt giải trí
khác. Nhạc cụ chỉ do nam giới sử dụng.
Tra kênh được cấu tạo từ 6 ống nứa kích thước không đều
nhau sắp xếp thành hai hàng. Hai ống đầu tiên có chiều dài và cả kích cỡ khác
nhau. Ống bên trái dài khoảng 55cm, đường kính 4cm; ống thứ hai dài khoảng
85cm, đường kích 3cm; ống thứ ba dài khoảng 80cm, đường kính khoảng 2,7cm; ống
thứ tư dài khoảng 72cm, đường kính tương đương ống thứ ba; ống thứ năm dài khoảng
65cm, đường kính 2,5cm; ống thứ sáu dài 54cm, đường kính tương đương ống thứ
năm. Số đo này không được thống nhất cố định, những chiếc khèn ngay trong một bản
cũng có kích cỡ và số đo các ống khác nhau. 6 ống được gắn lưỡi gà bằng kim loại
đồng, cùng được đặt trong một bầu thân khèn. Trên mỗi ống có một lỗ bấm cao độ,
6 ống cho ra sáu cao độ khác nhau. Thân khèn được làm từ gỗ thông. Âm thanh của
nhạc cụ này nghe vang, rền, khá độc đáo.
Nét độc đáo trong diễn tấu tra kênh là người ta vừa thổi
khèn vừa nhảy. Vì thế, trong các lễ hội truyền thống các chàng trai thường hay
được các cô gái chú ý khi tham gia trình tấu nhạc cụ này. Để trình diễn hay,
người ta dành rất nhiều thời gian để tập luyện những bài khèn và múa khèn nhằm
khẳng định mình mỗi khi diễn tấu trước mặt người khác, nhất là những chàng trai
chưa có vợ. Ngày nay, nhạc cụ này còn được dùng để đệm cho những bài hát dân ca
hay trong sinh hoạt văn nghệ quần chúng của đồng bào.
Trà plải là
một loại sáo ngang, được chế tác từ một doạn nứa già, khô có đường kính khoảng
2 đến 2,5cm, dài trung bình 50 đến 55cm, gắn lưỡi gà bằng kim loại đồng. Nhạc cụ
này có 5 lỗ bấm cao độ, bịt các lỗ lại và nhả dần ra cho tới hết được 6 âm:
d1-e1-f1-g1-a1-h1. Trà plải thường do nam giới độc tấu hoặc dùng để đệm cho hát
trong những dịp vui của dân làng. Âm thanh của nhạc cụ này nghe trầm, ấm, sâu
và vang.
Lìa dầu là một
loại sáo dọc, được chế tác từ thân cây nứa có đường kính khoảng 2cm, chiều dài
khoảng 55 đến 60cm. Nhạc cụ có cấu tạo 6 lỗ bấm cao độ, mỗi lỗ cách nhau khoảng
2,5cm. Lìa dầu thường do nam giới sử dụng sau những giờ làm việc mệt nhọc hoặc
trong các dịp hội vui của bản làng với mục đích giải trí. Ngoài độc tấu, nhạc cụ
ngày còn dùng để đệm cho hát. Âm thanh của lìa dầu nghe không sâu và vang như
trà plải nhưng tạo ra những đặc sắc riêng bởi những chuỗi âm lúc đục lúc trong
khi diễn tấu những điệu Cứ xia, Lù tẩu.
Trà đà (đàn
môi) là nhạc cụ tự thân vang, được cộng hưởng bởi khoang miệng, do nam giới sử
dụng vào mục đích giải trí, trong sinh hoạt hàng ngày. Nhạc cụ này được chế tác
bằng một mảnh kim loại đồng dát mỏng dần, phía trước cắt hình bầu dục, ở giữa cắt
một lam dạng lưỡi gà hình tam giác. Đàn có chiều dài trung bình khoảng 14cm, chỗ
rộng nhất khoảng 1,5cm. Đầu đàn xâu một sợi dây nhỏ để giữ đàn không rơi khi diễn
tấu. Chiếc đàn được đưa vào hai môi, ngón tay cái và tay trỏ cầm đuôi đàn, ngón
tay cái của bàn tay bên kia sẽ bật nhẹ vào đầu đàn, thân đàn rung và vang lên
phát ra âm thanh cùng với những bồi âm nghe rất độc đáo. Âm thanh thực của đàn
môi nghe nhỏ nhưng khá sâu. Cao độ phụ thuộc vào sự điều khiển khoang miệng của
người diễn tấu.
Trà kò (nhị)
là nhạc cụ dây, chi cung kéo. Trà kò chủ yếu do nam giới sử dụng trong sinh hoạt
giải trí, không dùng trong tang ma và lễ thức tín ngưỡng khác. Thân đàn được
làm bằng thanh gỗ, có đường kính trung bình khoảng 2cm, chiều dài thân khoảng
60cm. Trên đầu thân đàn có hai trục đàn. Bầu cộng hưởng được làm từ ống nứa già
để khô, đường kính khoảng 13cm, dài 18cm. Một mặt được bưng một miếng da trăn,
trên đó đặt một thanh tre nhỏ làm ngựa đàn cho hai dây đi qua. Mặt còn lại để
thoát âm, không bưng. Đàn có hai dây kim loại thép, bắt từ trục đàn đi qua bầu
cộng hưởng và chốt cố định ở phần cuối thân đàn. Cao độ hai dây đàn cách nhau một
quãng bốn đúng. Cung kéo trà kò có chiều dài tương đương chiều dài của thân
đàn. Dây cung trước đây được làm bằng lông đuôi ngựa hoặc ni lông. Bài bản mà
trà kò chơi là những bài lấy từ âm điệu của hát Cứ xia và Lù tẩu.
Triệu Văn Phú (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét