Tên tự gọi:Giáy
Tên gọi khác:Nhắng, Giẳng
Dân số: 58.617 người (theo kết quả điều tra dân số
năm 2009 của Tổng cục thống kê)
Ngôn ngữ: Tiếng Giáy thuộc ngữ hệ Thái - Ka
Ðai.
Lịch sử: Người Giáy từ Trung quốc di cư
sang Việt Nam cách đây khoảng 200 năm.
Hoạt động sản xuất: Người dân tộc Giáy có nhiều kinh nghiệm
canh tác lúa nước trên những triền ruộng bậc thang. Bên cạnh đó họ còn làm thêm
nương rẫy trồng ngô, lúa, các loại cây có củ và rau xanh. Chăn nuôi theo lối thả
rông. Có một số nghề thủ công nhưng chưa phát triển.
Làm ngói là một trong những nghề thủ công
của người Giáy ở Hà Giang. Ngói Âm dương (ngói máng) được tạo dáng bằng bàn
xoay tạo hình ống, phơi khô rồi cắt lát trước khi đưa vào lò nung.
Ăn: Ăn cơm tẻ. Gạo được luộc cho chín dở rồi mới cho vào chõ đồ
lên như đồ xôi. Nước luộc gạo dùng làm đồ uống. Cách chế biến món ăn, nhất là
ăn trong ngày lễ, ngày tết chịu ảnh hưởng sâu sắc của người Hán.
Mặc: Trước kia phụ nữ mặc váy xoè giống như váy của người
Hmông. Ngày nay họ mặc quần màu chàm đen có dải vải đỏ đắp trên phần cạp, áo
cánh 5 thân xẻ tà, dài quá mông, cài khuy bên nách phải, hò áo và cổ tay áo viền
những dải vải khác màu. Tóc vấn quanh đầu với những sợi chỉ hồng thả theo đuôi
tóc. Vai khoác túi thêu chỉ màu với hoa văn là những đường gấp khúc. Nam giới mặc
quần lá toạ, áo cánh xẻ tà, mở khuy ngực.
Ở: Người Giáy cư trú ở các huyện Bát Xát, Bảo Thắng, Mường
Khương (Lào Cai), Yên Minh, Ðồng Văn (Hà Giang), Phong Thổ, Mường Tè (Lai
Châu). Nhà sàn là nhà ở truyền thống. Hiện nay, kiểu nhà sàn vẫn phổ biến trong
bộ phận người Giáy ở Hà Giang, còn bộ phận ở Lao Cai và Lai Châu ở nhà đất
nhưng phía trước nhà vẫn là sàn phơi. Nhà thường có 3 gian, bàn thờ đặt ở gian
giữa.
Phương tiện vận chuyển: Họ gánh bằng dậu, dùng ngựa thồ, trâu
kéo.
Cưới xin: Gồm nhiều nghi lễ: dạm hỏi, thả mối,
ăn hỏi, cưới và lại mặt. Trong lễ ăn hỏi nhà trai đưa cho nhà gái một vòng cổ
và một vòng tay để "đánh dấu". Trong lễ cưới ngoài chi phí cho ăn uống,
nhà trai còn phải mang cho nhà gái một số thực phẩm và tiền để làm quà tặng họ
hàng gần; mỗi người một con gà, một con vịt và một đồng bạc trắng. ở người Giáy
cũng có tục kéo vợ như người Hmông.
Sinh đẻ: Khi có thai phụ nữ phải kiêng nhiều
thứ: không đun củi từ ngọn lên gốc (sợ đẻ ngược), không đến đám tang hay nơi thờ
cúng (sợ mất vía). Gần đến ngày đẻ, họ phải cúng mụ. Trẻ đầy tháng cúng báo tổ
tiên, đặt tên và lập lá số cho trẻ để sau này đem so tuổi khi lấy vợ, lấy chồng
và chọn giờ nhập quan, hạ huyệt khi chết đi.
Ma chay: Người dân tộc Giáy cho rằng khi
người ta chết, nếu ma chay chu đáo thì sẽ được lên trời sống sung sướng cùng với
tổ tiên, nếu không sẽ bị đưa xuống âm ti hoặc biến thành con vật. Vì thế, ở những
gia đình khá giả đám tang có thể kéo dài tới 5-7 ngày và có thêm một số nghi lễ
như thả đèn trôi sông, rước hồn đi dạo... Con cái để tang bố mẹ một năm. Lễ đoạn
tang thường được tổ chức vào dịp cuối năm.
Nữ phục Giáy mang phong cách từng địa
phương khá đậm. Chẳng hạn, phụ nữ ở Hà Giang thì mặc váy và áo dài, gần với chiếc
áo của người Nùng. Ngược lại, như trong ảnh, nữ giới ở Lào Cai lại mặc quần và
áo ngắn.
Thờ cúng: Bàn thờ đặt ở gian giữa, thường
có ba bát hương theo thứ tự từ trái sang phải thờ táo quân, trời đất và tổ
tiên. Trong trường hợp chủ nhà là con nuôi hay con rể thừa tự muốn thờ họ bố mẹ
đẻ thì đặt thêm một bát hương ở bên trái. Những gia đình không thờ bà mụ trong
buồng thì đặt thêm một bát hương ở bên phải. Ở một số gia đình ngoài bàn thờ lớn
còn đặt một bàn thờ nhỏ để thờ bố mẹ vợ. Phía dưới bàn thờ lớn ngay trên mặt đất
đặt một bát hương cúng thổ địa, ở hai bên cửa chính có hai bát hương thờ thần
giữ cửa.
Cũng giống như các dân tộc khác thuộc nhóm
ngôn ngữ Tày - Thái, người Giáy thường cư trú ở các thung lũng, nơi có nhiều điều
kiện làm ruộng nước. Cảnh quan quê hương thường trù phú được vẻ đẹp trữ tình
Lễ tết: Người Giáy ăn Tết như các dân tộc ở vùng Ðông
Bắc: Tết Nguyên đán, Thanh minh, Ðoan ngọ....
Lịch: Người Giáy theo âm lịch.
Học: Người dân tộc Giáy chưa có văn tự, chỉ có một số rất
ít người biết chữ Hán.
Văn nghệ: trong kho tàng văn nghệ của người
Giáy có truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, đồng dao, phong dao... Ở người Giáy có ba
kiểu hát mà họ gọi là "vươn" hay "phướn" hát bên mâm rượu,
hát đêm và hát tiễn dặn...
Thu Uyên (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét