Hoạt động
sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương
du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng
chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu... Chiếc cày của người Hmông
rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước
đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, dệt vải lanh là những hoạt động sản
xuất đặc sắc của người Hmông.
Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn,
gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi
đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông.
Họ phát triển đa dạng các nghề thủ
công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy
bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ
thủ công Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng
như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép.
Chợ ở vùng Mông thoả mãn vừa nhu cầu
trao đổi hàng hoá vừa nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt.
Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa.
Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào
mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh
bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ. Người Mông quen uống rượu ngô,
rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp
thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối
phổ biến với họ.
Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa
các nhóm.
Vẽ bằng sáp ong, nhuộm chàm là một cách tạo
hoa văn đặc trưng của người Mông hoặc Dao. Người phụ nữ dùng bút chấm sáp ong
nóng chảy để vẽ vào những hoa văn trên tấm vải lanh trắng. Vẽ xong, tấm vải đó
được nhuộm chàm nhiều lần cho đến khi được màu đen vừa ý. Sau đó người ta đem vải
nhúng vào nước nóng cho sáp ong tan ra, để lại những hoa văn màu trắng trên nền
chàm xanh.
Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải
lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để
chỏm, đội khăn rộng vành.
Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có
thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và
thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.
Phụ nữ Mông Ðen mặc váy bằng vải
chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.
Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ
Mông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn
ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.
Chợ phiên, nơi giao lưu trao đổi hàng hoá,
gặp gỡ của anh em, bạn bè trai gái, là một sinh hoạt đặc trưng của người Mông ở
vùng cao biên giới. Người ta thồ trên lưng ngựa đến chợ đủ mọi thứ hàng hoá
như: ngô, rau, củi... Ðàn ngựa thồ được quần tụ trên bãi để ngựa ở chợ Bắc Hà (Lao
Cai), Ðồng Văn (Hà Giang) là nét văn hoá đẹp ở vùng cao.
Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp
ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình
chữ thập. Ở: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục
nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ.
Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái
lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh. Lương
thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh
nhà.
Chuồng gia súc được lát ván cao
ráo, sạch sẽ.
Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một
khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.
Phương tiện vận chuyển: Người Mông
quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai.
Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều
họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các
quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước
kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết
và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc
giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ
cúng chung thổ thần của bản.
Thắng cố (chảo canh) là món ăn được ưa thích
của người Hmông. Ðây là món canh gồm các loại thịt, xương, lòng, gan, tim, phổi
bò (dê) cắt thành từng miếng nhỏ được nấu chung trong chảo to. Người Hmông thường
nấu Thắng cố khi nhà có bữa đám hay trong các chợ phiên.
Người Mông rất coi trọng dòng họ
bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở
những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng,
bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà,
cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ... Người cùng họ dù không
biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể
nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm
gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được
dòng họ tôn trọng, tin nghe.
Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua
lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ
chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Phổ
biến tục cướp vợ.
Mỗi gia đình Mông đều có bàn thờ ở gian giữa
nhà. Biểu trưng cho nơi thờ là vài tờ giấy bản có tráng kim ở giữa đóng trên
vách được thay vào dịp Tết hàng năm. Mỗi khi cúng người ta lấy lông gà chấm vào
tiết rồi dán lên tờ giấy bản đó.
Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi
linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa,
ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị
tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi
cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước.
Học: Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc
ngữ từ những năm sáu mươi nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến.
Ngày Tết, trai gái Mông vui chơi ca hát,
múa khèn, tung còn, đánh cầu lông gà, đánh quay. Chơi quay là một trò chơi phổ
biến ở hầu hết các dân tộc ở miền Bắc, nhưng mỗi dân tộc có cách đánh quay
riêng.
Lễ tết: Trong khi người Việt đang hối
hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì người Mông đã bước vào Tết năm mới
truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo
cách tính lịch cổ truyền của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống.
Ngày Tết, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng
quanh làng. Tết lớn thứ hai là Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngoài hai tết chính,
tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch).
Văn nghệ: Thanh niên thích chơi khèn, vừa
thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng, trong các lễ
cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình.
Thùy
Trang (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét