Người Bru - Vân Kiều (còn
gọi là người Bru, người Vân Kiều, người Mang Cong, người
Trì hay người Khùa) là dân tộc cư trú tại trung phần bán đảo
Đông Dương gồm Lào, Việt Nam và Thái Lan. Ngôn ngữ của người Bru là tiếng Bru,
một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Cơ Tu của ngữ tộc Môn-Khmer. Tại Việt
Nam họ là một dân tộc thiểu số trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.
Tại Việt Nam, theo điều
tra dân số năm 1999 thì dân tộc này có khoảng 55.559 người sống tập trung ở
miền núi của Quảng Trị, Quảng Bình, Đắk Lắk và Thừa
Thiên-Huế. Thực tế các tên gọi Vân Kiều,
Măng Coong, Trì, Khùa, Bru dùng để chỉ các nhóm khác nhau trong tộc người này.
Người Bru - Vân Kiều gùi hàng trên đường
9
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009,
người Bru-Vân Kiều ở Việt Nam có dân số 74.506 người, cư trú tại 39 trên tổng số
63 tỉnh, thành phố. Người Bru-Vân Kiều cư trú tập trung tại các tỉnh: Quảng
Trị (55.079 người, chiếm 73,9% tổng số người Bru-Vân Kiều tại Việt
Nam), Quảng Bình (14.631 người, chiếm 19,6% tổng số người Bru-Vân Kiều
tại Việt Nam), Đắk Lắk (3.348 người), Thừa Thiên-Huế (1.114
người), Thanh Hóa (38 người).[1]
Tại Lào, theo ước tính của Ethnologue, có khoảng
69.000 người Bru nói phương ngữ phía đông của tiếng Bru, tương tự như tại
Việt Nam.
Tại Thái Lan có khoảng 5.000 người nói
phương ngữ phía đông của tiếng Bru và khoảng 20.000 người nói phương ngữ phía
tây của tiếng Bru.
Người Bru vốn là cư dân nông nghiệp có
trình độ tương đối phát triển, xưa kia họ tập trung sinh sống tại vùng trung
Lào, sau những biến động của lịch sử diễn ra hàng thế kỷ, họ phải di cư đi các
nơi. Một số đi theo hướng tây bắc sang Thái Lan, một số đi theo hướng đông tụ
cư tại vùng miền núi phía tây Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế của Việt
Nam. Khi vào Việt Nam họ dựng làng xung quanh hòn núi Vân Kiều (núi Viên Kiều),
về sau người Việt lấy tên của hòn núi đặt cho một tổng của người Bru, và từ đó
họ còn được gọi là Bru - Vân Kiều
Tộc người này có truyền thống làm rẫy và làm ruộng, cùng với hái lượm săn bắn và đánh cá.
Việc chăn nuôi gia
súc, gia cầm dành chủ yếu cho các lễ cúng hơn
là cải thiện bữa ăn. Nghề thủ công của dân tộc này chỉ có đan chiếu lá, gùi. Văn hóa của người Bru-Vân Kiều đặc sắc, thể
hiện ở phong tục hôn nhân, nghệ thuật âm nhạc truyền thống, ở kiến trúc và trang phục, như miêu tả chi tiết dưới đây.
Hôn nhân
Trong phong tục đám cưới của người Bru-Vân Kiều,
nhà trai trao cho nhà gái một thanh kiếm. Cô dâu khi về nhà chồng thường
trải qua nhiều nghi lễ phức tạp: bắc bếp, rửa chân... Trong họ hàng, ông cậu có
quyền quyết định khá lớn đối với việc lấy vợ, lấy chồng cũng như khi làm nhà,
cúng bái của các cháu.
Âm nhạc
Nhạc cụ truyền thống Bru-Vân Kiều có nhiều loại: trống, thanh
la, chiêng núm, kèn (amam, ta-riềm, Khơ-lúi,
pi), đàn (achung, pơ-kua...). Dân ca của dân tộc này có nhiều
làn điệu như "chà chấp", lối vừa hát vừa kể rất phổ biến, hay
"sim", hình thức hát nam nữ. Ca dao, tục ngữ, truyện cổ các
loại của người Bru-Vân Kiều rất phong phú.
Kiến
trúc
Người Bru-Vân Kiều ở nhà sàn nhỏ, phù hợp với
quy mô gia đình thường gồm cha, mẹ và các con chưa lập gia đình riêng. Nếu ở gần
bờ sông, suối, các nhà trong làng tập trung thành một khu trải dọc
theo dòng chảy. Nếu ở chỗ bằng phẳng rộng rãi, các ngôi nhà trong làng xếp
thành vòng tròn hay hình bầu dục, ở giữa là nhà công cộng. Ngày nay, người
Bru-Vân Kiều ở nhiều nơi đã có xu hướng ở nhà trệt.
Nhà của người Bru-Vân Kiều là nhà sàn có hai mái, thường
lợp bằng lá mây hoặc lá cọ. Chiều dài của ngôi nhà dài - ngắn bao nhiêu tùy thuộc
vào số lượng người trong gia đình, hoặc tùy thuộc vào kinh tế. Nhưng dù nhà dài
hay ngắn, đều cũng chỉ có hai cửa chính, một cửa chủ yếu dành cho nữ, còn một cửa
chỉ dành cho nam và khách nam. Hai bên đầu hồi có những hình trang trí bằng gỗ
theo kiểu sừng trâu hoặc đôi chim, vừa đỡ bị tốc lá, vừa mang tính thẩm mỹ.
Trang phục
Nam giới Bru-Vân Kiều để tóc dài, búi tóc, ở trần,
đóng khố. Trước đây, họ thường lấy
vỏ cây sui làm khố, áo.
Phụ nữ Bru-Vân Kiều mặc áo và váy. Áo nữ có đặc điểm xẻ ngực màu chàm
đen và hàng kim loại bạc tròn đính ở mép cổ và hai bên nẹp áo.
Có nhóm mặc áo chui đầu, không tay, cổ khoét hình tròn hoặc hình
vuông. Váy trang trí theo các mảng lớn trong bố cục dải ngang. Gái chưa chồng
búi tóc về bên trái, sau khi lấy chồng búi tóc trên đỉnh đầu. Trước đây phụ nữ
Bru-Vân Kiều ở trần, mặc váy. Váy trước đây không dài thường qua gối 20 đến
25 cm.
Có nhóm nữ Bru-Vân Kiều đội khăn bằng vải quấn thành nhiều vòng trên đầu rồi thả
sau gáy, cổ đeo hạt cườm, mặc áo cánh xẻ ngực, dài tay màu chàm cổ và hai nẹp
trước áo có đính các "đồng tiền" bạc nhỏ màu sáng, nổi bật trên nền
chàm đen tạo nên một cá tính về phong cách thẩm mỹ riêng trong diện mạo
trang phục các dân tộc Việt Nam.
Huy Thục (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét