Dân tộc Dao say sưa hát Páo Dung (làn điệu dân ca)
Dân tộc Dao là một trong 54 dân tộc anh em đang sống trên dải
đất Việt Nam, phân bố chủ yếu ở các tỉnh vùng cao biên giới phía Bắc Việt Nam
như Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn. Dân tộc Dao có nhiều nhóm địa
phương, như: Dao Quần trắng, Dao quần chẹt, Dao Tiền, Dao Thanh Y, Dao Lô Gang,
Dao Đỏ...và có nhiều tên gọi khác: Mán, Động, Trại, Đại Bản, Tiểu Bản v.v...
Dân tộc Dao ở Cao Bằng có hai nhánh đó là Dao đỏ và Dao tiền,
thường sống ở các vùng núi cao và các thung lũng tương đối bằng phẳng của các
huyện: Nguyên Bình, Bảo Lâm, Bảo Lạc, Thông Nông, Hà Quảng, Thạch An… Tuy cư
trú ở núi cao, xa xôi, còn nhiều khó khăn, nhưng đồng bào Dao đỏ có truyền thống
văn hoá phong phú và giàu bản sắc. Văn hoá dân tộc Dao hoà vào dòng chảy của
văn hoá các dân tộc anh em, góp phần hình thành bản sắc văn hoá các dân tộc Việt
Nam.
Dân tộc Dao sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt trên nương
và ruộng nước. Ngoài lúa họ còn trồng màu. Nông cụ sản xuất thô sơ nhưng kỹ thuật
canh tác đã có nhiều tiến bộ. Một số nghề thủ công đã phát triển như dệt vải,
rèn, mộc, làm giấy, ép dầu... Họ nuôi nhiều lợn, gà, nhưng chủ yếu dùng trong
những ngày ma chay, cưới xin, lễ tết. Nhà ở có 3 loại khác nhau: nhà sàn, nhà nửa
sàn nửa đất, nhà đất (nhà trệt). Đàn ông Dao trước đây để tóc dài búi sau gáy,
hoặc để chỏm tóc trên đỉnh đầu. Ngày nay, hầu hết đã cắt tóc ngắn. Y phục thường
gồm quần và áo ngắn, áo dài. Trang phục của phụ nữ phong phú hơn, giữ được nhiều
nét trang trí hoa văn truyền thống. Phụ nữ Dao để tóc dài. Cô dâu trong ngày cưới
đội mũ. Dưới chế độ cũ, cưới xin gồm nhiều nghi lễ phức tạp. Có hai hình thức ở
rể: có thời hạn và vĩnh viễn. Tuy nhiên phổ biến là sau lễ cưới, vợ về nhà chồng.
Ma chay phản ánh nhiều tục lệ xa xưa. Ở một vài vùng có tục hoả táng cho người
chết từ 12 tuổi trở lên. Dân tộc Dao có nhiều tín ngưỡng về thần linh, ma quỷ,
có một số tục lệ thờ cúng phức tạp và tốn kém. Dân tộc Dao có quan hệ họ hàng
chặt chẽ và thông qua tên đệm để xác định dòng họ, vai vế của người đó trong
quan hệ dòng họ. Dân tộc Dao có nền văn hóa và lịch sử lâu đời. Mặc dù cơ sở
kinh tế nói chung còn thấp kém, nhưng tri thức dân gian rất phong phú, đặc biệt
là y học dân tộc cổ truyền. Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông - Dao, không có
văn tự riêng mà sử dụng chữ Hán đã được Dao hoá, gọi là chữ Nôm Dao.
Dân tộc Dao có hai hình thức thờ cúng chính là cúng tổ
tiên (Bàn Hồ) và cúng Bàn Vương. Trong cúng tổ tiên, người ta cúng đến 9 đời và
bàn thờ tổ tiên đặt ở nơi tôn nghiêm nhất và họ cho rằng tổ tiên không ở thường
trực trên bàn thờ mà chỉ ghé thăm họ vào ngày mồng một hoặc ngày rằm; cúng Bàn
Vương là cúng một nhân vật huyền thoại . Thờ Bàn Vương, không cần lập bàn thờ
riêng mà khấn chung với tổ tiên, trong các dịp lễ tết. Dân tộc Dao tin rằng,
Bàn Vương có liên quan đến số phận từng gia đình, từng gia tộc, nên có cúng bái
tốt thì mọi người mới khoẻ mạnh, gia tộc mới hưng thịnh.
Tuy nhiên, hình thái tín ngưỡng vạn vật hữu linh giáo tồn tại
rộng rãi ở dân tộc Dao. Đó là quan niệm đa thần, vạn vật hữu linh - tức là vạn
vật đều có linh hồn. Vì vậy, dân tộc Dao tin là có thần gió, thần mưa, thần
trông coi lúa gạo, hoa màu và thần chăn nuôi. Dân tộc Dao có rất nhiều nghi lễ
như lễ cúng nương, lễ cúng cơm mới, cúng thóc giống, cúng hồn gia súc, lễ cấp sắc
khá phổ biến và rất quan trọng đối với người đàn ông Dao.
Lễ cấp sắc của dân tộc Dao Tiền ở Cao Bằng
Tết cổ truyền của người dân tộc Dao diễn ra cùng dịp với Tết
Nguyên đán của người Việt, thường sớm hơn nửa tháng và kết thúc tương tự. Vào
những ngày giáp Tết (tháng 12 âm lịch), dân bản tập trung tại nhà trưởng bản hoặc
một nhà nào đó theo phiên để cùng nhau tiến hành "Tết Nhảy". Từ bao đời
nay, Tết nhảy đã trở thành nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc không thể thiếu của
dân tộc Dao trong mỗi dịp tết đến, xuân về. Để chuẩn bị cho "Tết Nhảy",
các thanh niên trong làng phải tập các điệu múa, điệu nhảy và phải chuẩn bị
gươm đao bằng gỗ để múa. Trong "Tết Nhảy", mỗi người phải nhảy múa đến
hàng trăm lượt trong tiếng chuông, tiếng trống giục giã. Người tham dự Tết, nhảy
múa liên tục cả ngày cả đêm, ai mệt thì ra, người khác sẽ thay thế. "Tết
Nhảy" của dân tộc Dao là tết của gia đình nhưng lại được cả bản coi như
là tết của chung. "Tết Nhảy" của dân tộc Dao là nét sinh hoạt
văn hóa mang tính tổng hợp của các loại hình nghệ thuật dân gian như nhảy múa,
âm nhạc, ngôn ngữ... tất cả đã làm nên vũ điệu sắc màu độc đáo riêng của
dân tộc Dao.
Trang phục của người phụ nữ Dao gồm: áo, yếm, xà cạp, cùng
đồ trang sức vàng bạc, khăn vấn đầu... Đối với trang phục của nam giới thì rất
đơn giản, đó là những chiếc áo ngắn, xẻ ngực, cài cúc trước ngực và thường cài
5 cúc. Quần rất rộng đũng, có thể cử động trong mọi tư thế. Cả nam, nữ và trẻ
con dân tộc Dao đều thích đeo trang sức như vòng cổ, chân, tay. Ngoài việc làm
đẹp thì chúng còn mang giá trị nhân văn, tín ngưỡng. Theo truyền thuyết kể lại,
người đeo trang sức bằng bạc thì sẽ trừ tà ma, tránh gió và thậm chí là được thần
linh phù hộ.
Trang phục nam, nữ của dân tộc Dao
Đối với việc cưới hỏi, trong Lễ ăn hỏi: Nhà trai mang gà,
rượu, thịt sang nhà gái đưa đồng bạc trắng, tuỳ từng địa phương số tiền thách
cưới là 1,20 hoặc 30 đồng bạc hoa xoè. Số bạc này nhà gái dùng để chuẩn bị quần
áo, tư trang để cô dâu về nhà chồng. Từ khi ăn hỏi đến khi cưới khoảng 1 năm để
cô gái phải thêu thùa quần áo cưới. Để báo hỉ cho khách đến dự đám cưới, hai
bên gia đình dùng vỏ quả bầu khô cắt ra từng viên nhỏ như hạt bầu nhuộm bằng
màu hồng. Người thân thường cho hai hạt (nghĩa là người được nhận hạt vỏ bầu
này được mời thêm một người nữa, thường là vợ hoặc chồng). Bao nhiêu khách thì
chuẩn bị bấy nhiêu hạt (việc dùng vỏ quả bầu cắt nhỏ để báo hỉ có liên quan đến
sự tích chuyện nạn hồng thuỷ của dân tộc Dao).
Lễ cưới: dân tộc Dao thường tổ chức cưới chủ yếu là bên
nhà trai. Bên nhà gái báo cho bên nhà trai số khách đến dự cưới là bao nhiêu
(thường là 100 - 120 người) để nhà trai chuẩn bị cỗ và thịt ruợu cho thông gia
nhà gái. Số thịt rượu hồi cho khách mỗi người 1 kg thịt lợn, 1 chai rượu. Ngày
cưới, đoàn nhà gái đưa dâu sang nhà trai gọi chung là đoàn (săn cha), từ trẻ đến
già ăn mặc chỉnh tề theo trang phục truyền thống của dân tộc mình. Sau khi ăn uống,
đoàn đưa dâu đứng trước bàn thờ tổ tiên, hai ông quan lang hai bên thưa với tổ
tiên việc cưới xin của gia đình và xin phép được đưa đón dâu sang nhà trai. Cô
dâu mặc trang phục ngày cưới, cổ và tay đeo vòng bạc... Trên đầu trùm chiếc
khăn đỏ to che kín mặt. Trong khi làm lễ cô dâu quay mặt ra phía cửa. Cô phù
dâu bên cạnh có nhiệm vụ che ô cho cô dâu đi đường và phụ giúp cô dâu trong quá
trình hành lễ từ nhà gái sang nhà trai. Trong đoàn săn cha có một người thổi Phằn
tỵ (kèn). Trên đường đi qua các bản, người thổi kèn thổi các bài ca chào bản
chào mường, mừng cưới theo điệu vui vẻ. Đến nhà trai, đoàn săn cha dừng chân
cách nhà trai một quãng. Nhà trai đưa bàn ghế ra, thuốc, trà, rượu ra mời đoàn
săn cha đang dừng chân (đợi giờ vào nhà). Đội nhạc lễ nhà trai gồm: trống,
thanh la, kèn, hai chũm chọe gồm một to và một nhỏ. Trước khi ra cửa đón dâu, đội
nhạc lễ thổi những bài ca mừng cưới vòng ba lần trong nhà rồi ra ngoài đón đoàn
săn cha nhà gái. Người thổi kèn đôi bên thổi bài chào đón khách và đưa cô dâu
cùng đoàn săn cha vào nhà.
Đám cưới của dân tộc Dao đỏ ở Cao Bằng
Lễ cô dâu vào nhà: Dân tộc Dao quan niệm khi cô dâu đi đường
có thể các loại ma, ngoại thần bám theo, nên trước khi vào nhà thầy Tào phải
làm lễ trừ tà quỷ. Cô dâu được phù dâu che ô và dắt vào trước cửa nhà, cô dâu vẫn
quay mặt ra ngoài. Nhà trai lấy một chậu nước trên chậu đặt một con dao, một
đôi dày mới, chuẩn bị ba cành đào hoặc ba cọng gianh tươi (dùng để đuổi tà) Thầy
miệng ngậm nước phép Tào làm phép đuổi tà thầy phù nước ra phía cửa đoạn cầm ba
nhành đào phi từ trong nhà qua trên đầu cô dâu. Xong động tác này, cô dâu bước
vào nhà dừng trước chậu nước bỏ đôi hài cũ ra dơ chân qua trên chậu nước, con
dao đặt trên chậu nước được bỏ ra, một em bé trai hoặc gái nhà trai rửa chân
cho cô dâu và đi hài mới vào chân cho cô dâu. Cô dâu được đưa vào buồng, chậu
nước được bê vào đặt dưới gầm giường cô dâu để đó ba ngày mới đổ đi. Đêm đó,
các cô gái, chàng trai đôi bên được dịp trổ tài hát Páo Dung. Càng về khuya lời
Páo Dung càng da diết, lũ trẻ mong mình lớn lên để được hát Páo Dung, người già
như thấy mình trẻ lại, thần rừng, thần cây nghe nuốt lấy từng câu, cất vào lòng
để rồi mai này nếu người Dao có quên hát Páo Dung thần sẽ nhắc lại... Đám cưới
dân tộc Dao được tổ chức hai ngày hai đêm. Khi đoàn săn cha nhà gái về, mỗi
người được biếu một ki lô gam thịt lợn và một chai rượu.
Được ba hôm, sau ngày cưới, cô dâu cùng chú rể và đoàn nhà
trai lại sang nhà gái làm Lễ lại mặt, đoàn gồm đôi vợ chồng trẻ, một số thanh
niên nam nữ. Nhà trai mang theo 20 ki lô gam thịt lợn (đã nấu chín), rượu, gạo
mời cơm họ hàng bà con thân cận của nhà gái. Đám cưới là một trong những sinh
hoạt văn hoá truyền thống của dân tộc Dao trong đó chứa đựng những giá trị về
văn hoá, về lịch sử, giá trị về giáo dục...
Dân tộc Dao có một nền văn hóa rất phong phú và đậm đà bản
sắc, phản ánh nhiều lĩnh vực của đời sống. Ca hát và sáng tác thơ là nhu cầu
sinh hoạt văn nghệ phổ biến của dân tộc Dao. Dân tộc Dao hát, sáng tác hoặc ứng
tác lời hát vào các dịp trai gái đến chơi làng, trong đám cưới, dịp vào nhà mới,
những ngày hội và chợ phiên... Có hai hình thức thể hiện là hát đơn và hát đối
đáp, nhưng hát đối đáp là thông dụng hơn. Hát đối đáp thường áp dụng khi làm
quen, tìm hiểu nhau. Theo đó, người ta chia làm hai bên, một bên nam, một bên nữ,
tối thiểu mỗi bên có một người. Tục ngữ, ca dao phản ánh nhiều lĩnh vực khác
nhau, đặc biệt là các kinh nghiệm sản xuất và sinh hoạt xã hội. Câu đối cũng đa
dạng và phản ánh nhiều khía cạnh của cuộc sống lao động và thiên nhiên xunh
quanh con người. Nhạc cụ dân tộc chủ yếu được sử dụng trong các nghi lễ tôn
giáo, tín ngưỡng, gồm có trống, thanh la, chũm choẹ, chuông nhạc và tù và.
Ngoài ra, dân tộc Dao còn có các loại nhạc cụ khác như nhị, sáo, đàn môi...
Kèn pí lè của người dân tộc Dao
Trò chơi của người dân tộc Dao cũng rất đa dạng, gồm nhiều
thể loại khác nhau; có trò mang tính nghi lễ như trò tập lên đồng, tập bói, nhảy
múa...; có trò chơi trong lúc uống rượu như trò chỉ ngón tay, hát đối đáp...;
có trò chơi trong ngày tết và những lúc rảnh rỗi khác như trò bắt dây bằng các
ngón tay, đu dây, đánh quay, đánh còn...
Hiện nay, xã hội ngày càng phát triển, nhiều tục lệ đã bị
mai một dần theo thời gian. Bảo tồn những giá trị văn hoá dân tộc Dao là
việc làm cần thiết để góp phần bảo tồn và phát huy vốn văn hóa phi vật thể đặc
sắc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Vi Đức Hồi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét