Dân tộc Dao (các tên gọi
khác: Mán, Đông, Trại, Dìu Miền, Kim Miền, Lù Gang, Làn Tẻn, Đại Bản, Tiểu Bản,
Cốc Ngáng, Cốc Mùn, Sơn Đầu v.v) là một dân tộc có địa bàn cư trú truyền thống
là nam Trung Quốc, và lân cận ở bắc phần tiểu
vùng Đông Nam Á.
Tại Trung Quốc dân tộc người
Dao là một trong số 56 dân tộc thiểu số được công nhận, (tiếng Hán: 瑶族, Pinyin: Yáo zú, nghĩa
là Dao tộc) . Dân tộc Dao cũng là một dân tộc thiểu số ở Lào, Myanma, Thái Lan.
Dân tộc Dao là một trong số
54 dân tộc tại Việt
Nam,
với số dân là 751.067 người (2009). Ở Việt Nam, dân tộc Dao tuy có dân số
không đông nhưng các bản làng của họ trải rộng tại các miền rừng núi phía Bắc
(Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Tuyên Quang,...) đến một số tỉnh
trung du như: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hòa Bình và miền biển Quảng Ninh (người Dao
Thanh Y).
Ngoài ra, dân tộc Dao còn
chia ra thành nhiều nhóm khác nhau, với những nét riêng về phong tục tập quán
mà biểu hiện rõ rệt nhất là trên trang phục của họ như: Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt,
Dao Thanh Y, Dao Áo dài, Dao Quần Trắng,... Mặc dù, họ có nhiều nhóm người khác
nhau như vậy nhưng ngôn ngữ của họ là thống nhất để đảm bảo mối quan hệ gắn kết
giữa các cộng đồng người Dao với nhau.
Tổng số dân Dân tộc Dao
751 067 người (năm2009)
Các nhóm và ngôn ngữ
Có một số nhóm khác biệt
trong phạm vi dân tộc Dao, và các nhóm này cũng nói bằng một vài ngôn ngữ từ
các ngữ hệ khác nhau, như:
Hệ ngôn
ngữ H'Mông-Miền (Miêu-Dao):
Người Miền nói các thứ tiếng Miền (tiếng Trung:
勉語/勉语, Hán-Việt: Miễn ngữ), bao
gồm:
Các ngôn ngữ Miền-Kim
Tiếng Dìu Miền (Ưu
Miền), khoảng 818.685 người (383.000 tại Trung Quốc, 350.000 tại Việt Nam,
40.000 tại Thái Lan, 20.250 tại Lào, 70.000 tại Hoa Kỳ)
Tiếng Kim Môn (còn
gọi là tiếng Dao đồng bằng, tiếng Làn Tẻn, tiếng Lam Điện), trên 300.000 người
Phương ngữ Phiêu
Man, 20.000 người
Phương ngữ Tảo Mẫn,
60.000 người
Tiếng Miền
Phiêu-Giao, 43.000 người
Tiếng H'Mông (hay tiếng Miêu)
Tiếng Bố Nỗ,
258.000 người
Phương ngữ Ngô Nại,
18.442 người
Phương ngữ Ưu Nặc,
9.716 người
Phương ngữ Huỳnh
Nại, 1.078 người, còn được biết đến như là 'Hoa Lam Dao
Một vài ngôn ngữ học gộp lại với tổng cộng trên 287.000
người - cùng nhau các phương ngữ của tiếng Bố Nỗ.
Tiếng Lạp Già 12.000
người.
Khoảng 500.000 người nói các phương ngữ của tiếng Trung
Chữ
viết
Dân tộc Dao có chữ viết gốc Hán được Dao hóa (chữ Nôm Dao).
Văn
hóa
Sách cổ đã sưu tầm và kiểm kê có tới 68% là các bộ kinh
thư, các sách về tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán. Sách văn học tuy chiếm
một tỉ lệ nhỏ (22,8%) nhưng có giá trị quan trọng. Bên cạnh một số dân ca (nhất
là dân ca giao duyên) được những người biết chữ cổ chép lại còn khá nhiều tập
truyện văn học, bao gồm một số bộ tiểu thuyết cổ của Trung Quốc. Các nhà nghiên
cứu lúc đầu chỉ sưu tầm được 2 truyện thơ, trong một dự án đã tìm thấy 23 truyện thơ lần
đầu tiên được phát hiện ở vùng dân tộc Dao như: "Hàn Bằng",
"Đàm Thanh", "Bát Nương", "Lâu Cảnh", "Trạng
Nghèo", "Đô Nương truyện", "Đặng Nguyên Huyện truyện",
"Bá Giai truyện", "Thần sắt ca"... Trong số đó, truyện thơ
kể về hành trình tìm đất vất vả của dân tộc Dao chiếm số lượng nhiều hơn cả
(40%). Một số truyện tuy có chủ đề khác nhưng trước khi đề cập đến nội dung
chính cũng kể về cuộc hành trình của dân tộc Dao.
Hai phụ nữ dân tộc Dao ở Sapa
Phong
tục tín ngưỡng
Họ có phong tục thờ tổ tiên là Bàn Hồ. Có thể xác định dòng họ và thứ bậc của người Dao qua
tên đệm. Ma chay của dân tộc Dao được làm theo tục lệ xa xưa. Vài vùng có tục hỏa táng cho người chết từ 12 tuổi trở lên. Tục ở rể có thời hạn và vĩnh viễn.
Bàn
Hồ
Bàn Hồ là nhân vật huyền thoại, thủy tổ của dân tộc Dao,
đã được nhắc tới trong truyện kể dân gian, thần tích và các truyện thơ, trong
đó đặc biệt phải kể tới sách "Quá Sơn bảng văn, Bàn Hồ (truyện thơ) và Đặng
hành và Bàn Đại Hộ (truyện thơ). Các tác phẩm nêu trên vừa được truyền miệng
trong dân gian, vừa được các trí thức người Dao ghi chép thành sách bằng chứ
Nôm Dao (kiểu chữ dùng mẫu tự Trung Quốc để ghi tiếng Dao).
Quá Sơn bảng văn (hay Bảng Văn, Bình Hoàng khoán điệp) được
viết trên tấm vải dài, rìa được đệm vải cho cứng chắc. Toàn bộ tài liệu này được
ghi bằng chữ Nôm Dao, hai đầu có vẽ cảnh triều đình, vua ngồi trên ngai vàng,
dưới chân là con chó Bàn Hồ, nội dung của Quá Sơn bảng văn có thể tóm tắt lại
như sau:
Bàn Hồ là con long khuyển mình dài ba thước, lông đen vằn
vàng, mướt như nhung, từ trên trời giáng xuống trần, được Bình Vương yêu quý,
nuôi trong cung vua. Một hôm bình vương nhận được chiếu thư của Cao Vương liền
hội triều đình lại để bàn cách đánh lại Cao Vương. Trong khi mọi người còn đang
yên lặng vì chưa tìm ra được kế gì, thì con long Khuyển Bàn Hồ nhảy ra phủ phục
trước nhà vua xin đi giết Cao Vương. Trước khi Bàn Hồ đi, vua hứa nếu Bàn Hồ giết
được Cao Vương thì sẽ gả công chúa cho. Bàn Hồ phải mất 7 ngày 7 đêm mới tới được
chỗ Cao Vương. Cao vương thấy con chó Bàn Hồ từ chỗ Bình Vương tới thì cho đó
là điềm may, liền mang Bàn Hồ về cung cấm nuôi. một hôm nhân lúc Cao Vương uống
rượu say. Bàn Hồ cắn chết Cao Vương, ngoạm đầu mang về báo công với Bình Vương.
Giữ lời hứa, Bình Vương gả con gái cho Bàn Hồ. Sau lễ cưới, Bàn Hồ mang vợ về
núi Cối Kê (Chiết Giang), sau đó vợ chồng Bàn Hồ sinh được 6 con trai và 6 người
con gái; 12 người con của Bàn Hồ đều được Bình Vương ban sắc thành 12 họ. Riêng
con cả lấy họ cha, họ Bàn, còn các con khác lấy tên họ sau: Lan, Mãn, Uyển, Đặng,
Trần, Lương, Lý, Tống, Phượng, Đối, Lưu, Triệu. Con cháu Bàn vương sinh sôi ra
ngày một nhiều. Tới thời Hồng Vũ (1368-1398), bị hạn ba năm liền không có gì
ăn, nhà vua cung cấp cho mỗi người một cái búa, một con dao để đốn rừng làm rẫy.
Con cháu Bàn Hồ phát hết rừng núi của Bình Vương, khiến cho nhà vua phải cấp
cho Quá Sơn bảng văn để phân tán đi các nơi tìm đất sinh sống.
Nhà
cửa
Ở Việt Nam, dân tộc Dao cư trú chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc,
và gần đây mới có một số nhỏ chuyển vào Tây Nguyên...Tuy nhiên, dù cư trú phân
tán và có nhiều nhóm Dao khác nhau như Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao quần trắng,...chúng
ta vẫn có thể nhận ra nét đặc trưng về nhà ở của tộc người này. Về cơ bản, dân
tộc Dao có ba loại hình nhà ở chính: nhà đất, nhà sàn và nhà nửa sàn nửa
đất (dân tộc Dao đỏ ở (Tả Phìn) Sa Pa - Lào Cai). Song, cùng với sự phát triển
chung của xã hội, những nét đặc trưng này đang phai nhạt dần, nhất là từ sau
năm 1945 và đặc biệt là những năm gần đây. Để tìm hiểu quá trình phát triển nhà
ở của dân tộc Dao cũng như nhiều dân tộc khác ở Việt Nam, người ta đặc biệt
quan tâm đến kết cấu của bộ khung nhà mà đơn vị kết cấu của bộ khung nhà là các
kiểu vì (vì cột, vì trung gian giữa vì kèo - vì cột và vì kèo). Nhà ở của dân
Dao là các kiểu vì kèo và một yếu tố khác vô cùng quan trọng là tổ chức mặt bằng
sinh hoạt. Bởi vì sự khác biệt giữa nhà ở của dân tộc nước ta chủ yếu ở hai yếu
tố đó, còn yếu tố khác chỉ là thứ yếu.
Trang
phục
Trong trang phục truyền thống, dân tộc Dao nam mặc quần và áo
đơn giản, nữ trang phục phong phú hơn với những trang trí hoa văn truyền thống,
đầu đội khăn.
Tại
Trung Quốc
Người Dao tại Trung Quốc có thể chia ra như sau:
Lam Điện Dao (Dao Chàm): Phân bố tại Vân Nam, Quảng Tây. Nhóm này cũng được coi là có mặt tại Việt Nam, Lào. Y phục của họ thường được nhuộm chàm.
Hồng Dao (Dao Đỏ): Chủ yếu cư trú tại huyện Long Thắng (Quảng Tây). Quần áo của họ thường là màu đỏ.
Bàn Dao: Chủ yếu cư trú tại Quế Bình (Quảng Tây). Thờ phụng Bàn Hồ. "Tết Bàn vương" là lễ hội quan trọng nhất.
Sơn Tử Dao:
Đính Bản Dao:
Hoa Lam Dao:
Quá Sơn Dao: Cư trú tại huyện Tân Ninh (Thiệu Dương, Hồ Nam).
Bạch Khố Dao: Chủ yếu cư trú tại Quảng Tây hà trì nam đan. Họ mặc quần màu trắng, vì thế
mà có tên gọi này.
Bát Bài Dao: Chủ yếu cư trú tại huyện tự trị dân tộc
Dao Liên Nam (Thanh Viễn, Quảng Đông).
Bình Địa Dao (Dao đồng bằng):
Ao Dao:
Trà Sơn Dao:
Theo kết quả nghiên cứu của Đề án "Sưu tầm kiểm kê
kho sách cổ dân tộc Dao" do Tiến sĩ Trần Hữu Sơn (Giám đốc Sở Văn hóa -
Thông tin - Thể thao Lào Cai) chủ trì có đăng tại thì: Dân tộc Dao có nguồn gốc
xa xưa ở đảo Hải Nam (Trung Quốc) gồm 7 nhóm. Dân tộc Dao ở Việt Nam có 3
nhóm: Dao Tuyển, Dao Nga Hoàng và Dao Làn Tẻn (còn gọi là Dao Chàm) họ bắt đầu
di cư sang Việt Nam vào thời Lê (vào khoảng cuối thế kỷ 17). Để đến được đất Việt,
sống ở vùng núi như ngày nay, dân tộc Dao đã phải trải qua cuộc hành trình
muôn phần gian khổ vượt biển, vượt núi, vượt sông. Điều này phản ánh rõ trong
nhiều phong tục, nghi lễ của dân tộc Dao và được ghi lại rất tỉ mỉ trong sách
cổ. Dân tộc Dao di cư sang Việt Nam theo nhiều đợt từ đảo Hải Nam, qua Phòng
Thành, tới Bắc Giang.
Tới đây, họ di chuyển theo các hướng khác nhau là:
Theo sông Lô tới Hà Giang hình
thành nên dân tộc Dao áo dài.
Theo sông Chảy tới Lào Cai, hậu duệ ngày nay gọi là Dao
Tuyển.
Nhóm ở lại vùng Nga Hoàng thuộc Yên Lập, Yên Phúc một thời
gian, sau đó di chuyển tới Văn Chấn (Yên Bái), rồi Văn Bàn (Lào Cai)
là tổ tiên dân tộc Dao quần chẹt ngày nay.
Địa
bàn cư trú
Dân tộc Dao cư trú chủ yếu ở biên giới Việt-Trung, Việt-Lào
và ở một số tỉnh trung du và ven biển Bắc bộ Việt Nam. Cụ thể, đa phần
tại các tỉnh như Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu, Hòa Bìnhv.v
Tại Việt Nam, dân số người Dao
theo điều tra dân số năm 1999 là 620.538 người
Theo Tổng điều
tra dân số và nhà ở năm 2009, người Dao ở Việt Nam có dân số 751.067
người, cư trú tại 61 trên tổng số 63 tỉnh, thành
phố. Dân tộc Dao cư trú tập trung tại các tỉnh: Hà Giang (109.708
người, chiếm 15,1% dân số toàn tỉnh và 14,6% tổng số dân tộc Dao tại Việt
Nam), Tuyên Quang (90.618
người, chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh và 12,1% tổng số dân tộc Dao tại Việt
Nam), Lào Cai (88.379 người,
chiếm 14,4% dân số toàn tỉnh và 11,8% tổng số dân tộc Dao tại Việt Nam), Yên Bái (83.888 người,
chiếm 11,3% dân số toàn tỉnh và 11,2% tổng số dân tộc Dao tại Việt Nam), Quảng Ninh (59.156
người, chiếm 5,2% dân số toàn tỉnh), Bắc Kạn(51.801 người,
chiếm 17,6% dân số toàn tỉnh), Cao Bằng (51.124
người, chiếm 10,1% dân số toàn tỉnh), Lai Châu (48.745
người, chiếm 13,2% dân số toàn tỉnh),Lạng Sơn (25.666
người), Thái Nguyên (25.360
người)..
Vi Đức Hồi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét