Một số tác phẩm Nôm Tày được xuất bản và phát hành từ ngồn kinh
phí sự nghiệp KH&CN tỉnh Cao Bằng.
Dân tộc Tày là dân tộc thiểu số đông dân nhất Việt Nam.
Theo kết quả điều tra dân số năm 2009, dân tộc Tày có 1.626.329 người. Địa bàn
cư trú của đồng bào dân tộc Tày thuộc các tỉnh miền núi phái Bắc Việt Nam như: Lạng
Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái…Và một số Tỉnh
ở Phía Nam như: Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia Lai… cũng có người Tày cư trú, nhưng họ
là cư dân mới chuyển vào trong thời gian gần đây. Như vậy, có thể nói khu vực
Đông bắc bộ được coi là nơi sinh tụ lâu đời của người Tày trong đó Lạng Sơn (có
259.496 người) và Cao Bằng (có 207.805 người) đây là hai tỉnh có số người Tày
cư trú đông đúc nhất.
Khảo cứu nhiều dòng họ người Tày ở Cao Bằng cho thấy,
nhiều dòng họ người Tày tại đây có nguồn gốc khác nhau, có thể là người Tày cổ
trước đây còn gọi là người Thổ (cư dân bản địa đã sinh sống từ lâu đời), có thể
là Tày lưu quan (từ nơi khác đến làm quan và ở lại) cũng có thể là người Kinh từ
miền xuôi lên, người Hoa từ Trung Quốc sang,….Điều đó chứng tỏ rằng, người Tày
ngày nay có nhiều nguồn gốc hoà hợp, cụ thể như: dòng họ Bế đều khai là dân tộc
Tày, nhưng cụ tổ là người Thanh Hoá lên Cao Bằng dạy chữ Nho rồi bén duyên với
con gái dân tộc Tày và ở rể tại Cao Bằng. Theo phong tục tập quán của người
Tày, người chồng đến ăn nghiệp bên vợ, con cái sinh ra phải mang họ vợ và họ của
người chồng thường chỉ còn một chữ đệm giữa họ và tên, con cái được xác định
là người dân tộc Tày. Gia phả các dòng họ Thân dân tộc Tày ở xã Bình Long, huyện
Hoà An ghi lại, họ vốn là người Nam Định, Hải Dương, Bắc
Giang…
Như vậy, trong quá trình phát triển, dân tộc Tày có quan hệ
giao thoa về nhiều mặt như trong lĩnh vực văn hoá và ngôn ngữ. Văn hoá dân tộc
Tày vẫn mang màu sắc riêng nhưng không vì thế mà kém đi sự đặc sắc, phong phú
và đa dạng. Hoà trong dòng chảy của nền văn hoá, ngôn ngữ dân tộc Tày cũng tiếp
nhận sự ảnh hưởng sâu sắc của ngôn ngữ dân tộc Kinh và các dân tộc anh em khác.
Ngôn ngữ của dân tộc Tày là tiếng Tày. Tiếng Tày có vị trí
quan trọng và được sử dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày của cư dân bản xứ.
Song để biểu thị các khái niệm xã hội, chính trị, pháp lý, khoa học…thì tiếng
Tày phải vay mượn từ tiếng Hán và đặc biệt từ tiếng phổ thông là tiếng Việt. Sự
vay mượn được hình thành trong thực tiễn đời sống nên phù hợp với quy luật, điều
đó đã làm cho tiếng Tày trở nên phong phú, có sức sống mãnh liệt, bền bỉ trở
thành công cụ giao tiếp trong cộng đồng cư dân người Tày xưa và nay.
So với vùng dân tộc thiểu số trong khu vực Đông Bắc bộ, việc
học chữ Hán của người Tày là phát triển hơn cả. Một lớp Nho sĩ bình dân tức là
lớp tri thức dân tộc nhỏ đã hình thành. Tuy trình độ học vấn của họ không cao lắm,
nhưng họ gắn bó chặt chẽ với nhân dân, họ đã góp sức cùng quần chúng nhân dân
xây dựng nền ngôn ngữ và văn học dân tộc, chủ yếu là văn học dân gian có sắc
thái riêng biệt.
Trước khi có chữ Quốc ngữ thì chữ Hán và chữ Nôm Tày được sử
dụng phổ biến trong dân gian. Bao gồm các từ chỉ sự vật, hiện tượng trong thiên
nhiên, cây cối, con vật, thời gian, không gian và những từ chỉ hoạt động trạng
thái của người và vật trong xã hội. Và một số từ ngữ mượn chữ Hán và chữ Nôm để
diễn đạt các khái niệm trìu tượng, những thuật ngữ văn học nghệ thuật, khoa học
kỹ thuật.
Sau khi chữ quốc ngữ được sử dụng một cách phổ biến, nhất
là từ khi hệ thống chữ Tày được la tinh hoá, và "Phương án chữ Tày Nùng" được chính thức công bố và sử dụng
năm 1961, thì phạm vi sử dụng tiếng Tày trong đời sống xã hội càng trở nên quan
trọng. Sách báo được viết bằng tiếng Tày thuộc nhiều thể loại khác nhau trong
nhiều lĩnh vực được xuất bản ngày càng nhiều trong khu vực Đông Bắc.
Ngôn ngữ của người Tày rất giàu và đẹp, điều đó đã khiến
cho lời ăn tiếng nói của người Tày trở nên hết sức phong phú, uyển chuyển, tinh
tế và khái quát. Với số đơn vị ngữ âm phong phú đã tạo ra các từ ngữ diễn đạt mọi
khía cạnh của đời sống vật chất và tinh thần bên cạnh vốn từ vay mượn từ tiếng
Hán và tiếng Việt. Bởi thế, tiếng Tày đã trở thành phương tiện lưu truyền một
kho tàng văn học dân gian phong phú bao gồm: truyện cổ tích, thần thoại và vốn
thi ca cổ truyền gồm: dân ca trữ tình, thơ ca đám cưới, hát ru, văn cúng bái,
văn than... không biết được sáng tác từ bao giờ. Nội dung chủ yếu của những câu
chuyện đó nhằm giải thích vũ trụ, nguồn gốc loài người, nguồn gốc các dân tộc,
nêu lên lòng chính nghĩa, ghét gian tà, tinh thần đấu tranh chống lực lượng
siêu nhiên thần kỳ, chống cường quyền ác bá, đấu tranh để giữ trọn vẹn mối tình
chung thuỷ lứa đôi, bạn bè, đấu tranh chống ngoại xâm, truyền thống đoàn kết
dân tộc…Ta có thể tìm thấy vô vàn dẫn chứng nói lên điều đó. Ví dụ như nói về
tình cảm giữa con người với con người, đồng bào dân tộc Tày thường truyền nhau
câu:
"Lảc mạy tẩn, lạc gần rì" (Rễ cây ngắn, rễ
người dài).
Hay ca ngợi giá trị của con người quý hơn mọi giá trị tiền
bạc được các thế hệ ông cha đúc kết lại:
"Ngần chèn tang tôm nhả
Tha nả tảy xiên kim"(Tiền bạc như đất cỏ
Danh dự tựa ngàn vàng".
Những lời thơ, câu văn hàm súc, triết lý và vô cùng ý nghĩa
ấy, lúc đầu được lưu truyền từ người này sang người khác bằng phương thức truyền
miệng, về sau được ghi chép bằng chữ Nôm Tày và chữ Tày theo phiên âm la tinh.
Chữ Nôm Tày xuất hiện và được dùng để sáng tác, ghi chép
văn chương, còn trong đời sống hàng ngày, tiếng Tày giữ địa vị là phương tiện
giao tiếp phổ biến. Đó là lời cha ông nói với con cháu, là hàng xóm nói với
láng giềng, là lời nam thanh hát đối với nữ tú qua những câu sli tiếng lượn
(làn điệu dân ca của người Tày) như:
"Tính vuồn tính khát sai tả coóc
Mèng vuồn mèng hăn bioóc dạn tom
Cáy vuồn cáy hăn non dạn khuế
Lủc vuồn lủc hăn mẻ dạn giăng
Nghĩa vuồn nghĩa hăn căn dạn phuối...."
(Dịch thơ:
Đàn tính buồn, đàn tính đứt dây
Ong buồn hoa nở ong bay chẳng vờn
Gà buồn lười bới sâu ăn
Con buồn thấy mẹ ngại ngần dạ thưa
Người buồn gặp nghĩa thờ ơ
Lời sao ngại nói biết chờ đợi chi?
Nhìn chung, trong đời sống ngôn ngữ, văn hoá của người Tày,
tiếng dân tộc và tiếng phổ thông cùng hoạt động trên nhiều lĩnh vực: Chính trị,
quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội. Tiếng Tày không chỉ còn là của riêng người
Tày và các dân tộc thiểu số láng giềng mà đã được hàng vạn người Kinh sinh sống
và làm việc bên cạnh người Tày cũng coi đó là phương tiện ngôn ngữ thường xuyên
sử dụng trong giao tiếp.
Ngôn ngữ là tiền đề cho đối tượng văn hoá phát triển. Và sự phát triển của văn hoá tạo tiền đề trở lại cho ngôn ngữ phát triển. Chính vì vậy, người Tày đã sử dụng ngôn ngữ để ghi chép và gìn giữ những giá trị văn hoá vật chất cũng như văn hoá tinh thần của dân tộc mình.
Có thể nói, ngôn ngữ có khả năng tổng hợp và khái quát lại
mọi mặt của đời sống xã hội, phản ánh tập trung tiến trình phát triển những nét
văn hoá của cộng đồng. Chính vì vậy, cho đến ngày nay, ngôn ngữ của dân tộc Tày
vẫn luôn là mảng đề tài hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu và đối với những ai
có hứng thú tìm hiểu những nét văn hoá độc đáo, riêng biệt của dân tộc này.
Triệu Thị Kiều Dung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét