Người dân tộc H'Mông (hay Hơ-Mông, RPA: Hmoob/Moob; phát âm: m̥ɔ̃ŋ) là một nhóm dân tộc có địa bàn cư trú truyền thống là Trung Quốc và các nước lân cận thuộc
tiểu vùng Đông Nam Á là Lào, Việt
Nam, Thái Lan và Myanmar.
Người dân tộc H'Mông nói tiếng H'Mông, một ngôn ngữ chính trong hệ ngôn ngữ H'Mông-Miền. Tiếng H'Mông vốn chưa có chữ viết, hiện dùng phổ biến là chữ Hmông Latin hóa (RPA) được lập từ năm 1953 [2].
Người H'Mông ở
Sa Pa, Việt Nam
Tại
Trung Quốc người H'Mông bao gồm các phân nhóm: H'Mông, Hmu,
Hmao và Ghao Xong. Bên ngoài Trung Quốc thì chủ yếu thuộc phân nhóm H'Mông.
Tại Việt
Nam người H'Mông là một trong các dân tộc thiểu số có dân số
đáng kể trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.
Tiếng
H'Mông bao gồm 3 phương ngữ, với 30-40 thổ ngữ có thể
hiểu lẫn nhau
được, cùng với tiếng Bunu, thuộc về nhóm H'Mông trong hệ ngôn ngữ H'Mông-Miền(hay hệ Miêu-Dao theo văn liệu Trung Quốc).
Chỉ
có nhóm thứ tư
sử dụng thuật ngữ "H'Mông" (hay
"Hmông"). Ngoài ra, chỉ có người Hmông (và một
số Hmu) có người sinh sống ngoài phạm vi Trung Quốc. Những người Hmông phi Trung Quốc này cho rằng thuật ngữ
"Hmông" không chỉ để nói tới nhóm thổ ngữ của họ, mà còn là để chỉ
các nhóm khác sống tại Trung Quốc. Nói chung, họ cho rằng thuật ngữ
"Miao" (hay "Miêu") là một thuật ngữ xúc phạm và không nên
sử dụng nó. Thay vì điều này thuật ngữ "Hmông" được
sử dụng để chỉ mọi nhóm người thuộc dân tộc này. Tuy nhiên, điều này
có thể là kết quả của sự nhầm lẫn biểu hiện và ý
nghĩa của
từ. Các nhà thám hiểm và xâm lược Trung Hoa đặt cho người Hmông tên gọi
"Miao" (hay "Miêu"), sau đó trở thành "Meo" (Mèo)
và "Man" (Mán). Thuật ngữ sau để chỉ những kẻ "man di, mọi rợ ở
miền nam". Từ "Miêu" cũng được sử dụng trong các ngôn ngữ khác của
khu vực Đông Nam Á như tiếng Việt, Lào, Thái v.v. trong dạng "Meo" (tức
là "Mèo"). Mặc dù rất nhiều người nói các thứ tiếng này (và cả người
Trung Quốc) không nghi ngờ gì khi cho rằng "Miêu" là những kẻ man
dinhưng điều này không có cách gì để chứng minh từ này có nghĩa như vậy. Có thể
những người nói tiếng Việt, Lào, Thái đã lấy từ "miao" (miêu) từ tiếng
Trung Hoa, nhưng đã bỏ mất ý nghĩa nguyên thủy của nó là "cây giống"
và sử dụng nó chỉ để gọi những người mà họ cho là man rợ. Nó được phát âm với
giọng sai trong tiếng Thái hay với giọng cao trong tiếng Hán Quảng Đông thì có
ý nghĩa là "Mèo" (đây là khả năng của nguồn gốc tượng thanh). Trong cách dịch của người
Việt các từ Hán-Việt thì "miêu"
cũng là "mèo". Điều này giải thích tại sao lại có sự phản đối quyết
liệt như vậy chống lại thuật ngữ "miêu" trong các nhóm người H'Mông tại
khu vực Đông Nam Á.
Người H'Mông Hoa trong quần áo truyền thống tại
chợ Bắc Hà, Việt Nam
Tại Trung Quốc, tình hình lại khác hẳn vì hai
nguyên nhân chính. Các nhóm người Miêu có các tên tự gọi khác hẳn và chỉ một số
rất ít sử dụng từ "Hmông". Những người còn lại thì không có ý kiến gì
khi cho rằng "Hmông" là thích hợp hơn so với "Miêu" trong
vai trò của tên gọi chung. Kể từ khi có phân loại chính thức các dân tộc thiểu
số trong thập niên 1950 một số dân tộc thiểu số
đã khiếu nại về từ ngữ được sử dụng ở Trung Quốc để gọi tên dân tộc họ và đã đề
nghị chính quyền thay đổi cách sử dụng chính thức. Nhóm người Miêu ở Trung Quốc,
theo bài báo năm 1992 trong Dự án bản tin Thái-Vân Nam [TYPN
1992], đã không có khiếu nại gì. Lý do thứ hai thuần túy là thực dụng: không có
khả năng đưa từ "hmong" vào trong tiếng Trung do âm tiết của nó
không tồn tại trong tiếng Trung. (Cũng giống như trong tiếng Anh là có rất ít
người có khả năng phát âm các âm điếc giọng mũi). Tuy nhiên, trong tiếng Anh, không giống như tiếng
Trung, người ta có khả năng viết được từ "Hmong".
Người Hmông viết tên gọi của dân tộc mình giống
như "Hmoob"[cần dẫn nguồn]. Hai nguyên âm chỉ ra rằng nó được
phát âm giống như âm mũi, và một số phụ âm được sử dụng ở cuối của âm tiết để
biểu thị giọng đọc. Vì thế từ America được viết giống như
là Asmeslivkas trong tiếng Hmông.
Ngôn ngữ
Tiếng H'Mông là một ngôn ngữ nằm
trong hệ ngôn ngữ H'Mông-Miền (hay Miêu-Dao). Trên thực
tế vấn đề phân loại theo quan hệ họ hàng của ngôn ngữ này đã từng có nhiều ý kiến
khá khác nhau. Một số nhà ngôn ngữ họcxếp tiếng H'Mông thuộc nhánh Miêu-Dao
trong ngữ hệ Hán-Tạng[cần dẫn nguồn], trong đó phải kể đến các nhà khoa
học Trung Quốc. Trong những ý kiến đáng chú ý ta còn phải kể đến Paul K.
Benedict với quan điểm quy các ngôn ngữ trong khu vực thành 2 hệ cơ bản: Hán-Tạng
và Nam Thái (Austro-Thai). '
Quân Thanh chiến đấu với quân nổi dậy người Miêu tại Hồ Nam năm 1795
Chữ Hmông theo tự dạng Latin
Tại Lào, nỗ lực lập ra bộ chữ Hmông Latin hóa RPA (theo tiếng Anh: Romanized
Popular Alphabet) được
nhà truyền giáo Tin Lành G. Linwood Barney ở tỉnhXiengkhuang bắt đầu vào năm 1951 [2]. Ông lập dựa trên thổ
ngữ Hmông Lềnh (Mong Leng), với các cố vấn người H'Mông là Geu Yang và Tua Xiong. Ông tham khảo ý kiến
với William A. Smalley, một nhà truyền giáo học tiếng Khmu tại tỉnh Luang
Prabang vào thời điểm đó. Cùng lúc đó Yves Bertrais, một nhà truyền giáoCông giáo La Mã ở Kiu Katiam, Luang Prabang, đã tiến hành một dự án
tương tự với Chong Yeng Yang và Chue Her Thao. Hai nhóm làm việc đã gặp nhau
trong năm 1952 và hóa giải mọi sự khác biệt. Năm 1953 cho ra phiên bản RPA thống nhất. RPA đã trở
thành hệ thống phổ biến nhất để viết tiếng Hmông ở phương Tây [2]. Nó cũng được sử dụng trong
khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc cùng với các hệ thống văn bản khác.
Phụ nữ H'Mông ở Tả Phìn
Năm 1959 thủ lĩnh tinh thần người H'Mông tại Lào
là Shong Lue Yang (RPA: Soob Lwj Yaj;
1929 – 1971) lập ra bộ chữ Pahawh Hmong với hệ ký tự riêng
(không phải Latin). Bộ chữ dựa nhiều vào thổ ngữ ngành H'Mông Đơư (Hmông trắng;
Hmong Daw; RPA: Hmoob Dawb) và H'Mông Lềnh (Hmông Xanh; Hmong Leng; RPA: Moob
Leeg). Bộ chữ Pahawh hiện có mã unicode là U+16B00–U+16B8F [3].
Tại Việt Nam năm 1961 phương án chữ H'Mông theo tự
dạng Latin đã được chính phủ Việt Nam phê chuẩn (cụ thể bộ chữ được xây dựng
theo ngữ âm ngành H'Mông Lềnh Sa Pa — Lào Cai) có bổ sung thêm một số âm vị của
các ngành H'Mông khác, gồm 59 phụ âm (có 3 âm vị phụ âm của ngành H'Mông Đơư và
H'Mông Sua), 28 vần và 8 thanh. Vào thập niên 1970, phong trào học chữ H'Mông
phát triển khá mạnh ở hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam, nơi có
nhiều người H'Mông sinh sống[cần dẫn nguồn]. Nhưng đến nay với nhiều nguyên
nhân khác nhau mà tình hình học chữ H'Mông đã không còn phát triển như trước
kia nữa.
Lịch sử
Trong truyện truyền khẩu, truyền thuyết của người
H'Mông nói rằng họ đã đến từ những vùng đất cực kỳ lạnh lẽo, ở nơi đó bóng tối
kéo dài 6 tháng và ánh sáng cũng kéo dài 6 tháng. Từ nơi này, họ đã đến Trung Quốc theo những chuyến đi
săn. Một người thợ săn và con chó của ông đã theo đuổi
con mồi trong một số ngày trong tuyết. Người thợ săn hết lương thực và phải
quay về để chuẩn bị tiếp tục đi săn mà không có con chó của mình. Khi người thợ
săn bắt đầu lên đường trở lại thì con chó đã ở phía sau lưng ông. Người thợ săn
hôn hít con chó của mình và phát hiện thấy có những hạt cây lạ dính trên lông của
nó. Lúc đó, tuy người H'Mông cho rằng toàn thể thế giới đã được thám hiểm hết,
nhưng những hạt lạ đã dẫn dắt họ tới Trung Hoa.
Nơi thứ hai trong đó miêu tả người H'Mông từ nơi
nào đến diễn ra trong nghi thức an táng "chỉ đường" của họ. Trong
nghi thức này, người đã chết được chỉ dẫn cho về với tổ tiên. Người ta tin rằng
người đã chết rời bỏ thế giới này để trở về với cội nguồn của họ, là một nơi cực
kỳ lạnh lẽo. Thời kỳ băng hà cuối cùng đã kết thúc cách đây khoảng 10.000 năm
và nó xảy ra cùng thời điểm với sự ra đời của người hiện đại. Các điều kiện được miêu tả
trong truyện truyền khẩu và nghi thức an táng của người H'Mông chắc chắn nói đến
một thế giới chỉ có toàn tuyết và băng giá, là những thứ thấy được cho đến khi
kết thúc thời kỳ băng hà gần đây nhất.
Lịch sử theo truyền thuyết Trung Quốc
Theo truyền thuyết Trung Hoa, bộ tộc của Xi
Vưu đã bị đánh bại ở Trác Lộc (涿鹿, một địa danh cổ trên ranh giới tỉnh Hồ Bắc và Liêu Ninh ngày nay) bởi liên
minh quân sự của Hoàng Đế và Viêm Đế, các thủ lĩnh của bộ tộc Hoa Hạ (華夏) khi họ tranh giành quyền
làm chủ lưu vực sông Hoàng Hà. La bàn được cho là lý
do quyết định trong chiến thắng của người Hoa
Hạ. Trận đánh này, được cho là diễn ra
vào thế kỷ 26 TCN, đã diễn ra dưới điều kiện thời tiết mù sương và người Hoa
Hạ đã có thể chiến thắng tổ tiên của người
H'Mông là nhờ có la bàn.
Sau
thất bại, bộ tộc ban đầu của người H'Mông được chia ra thành hai nhóm bộ tộc nhỏ, là Miêu và Lê (黎). Người Miêu tiếp tục di chuyển về
phía tây nam còn người Lê về phía đông nam giống như bộ tộc Hoa Hạ (ngày nay là người Hán) mở rộng xuống phía nam. Trong suốt
chiều dài lịch sử Trung Hoa, họ được nói đến như những kẻ "man di" do
sự chênh lệch ngày càng tăng trong văn hóa và kỹ thuật so với người Hán. Một bộ phận các bộ tộc này
đã bị đồng hóa thành người Hán trong thời kỳ nhà Chu (1122 TCN-256 TCN).
Có một phiên bản khác của thời kỳ hậu-Cửu Lê, người
dân của Cửu Lê chia thành 3 nhóm đi
theo 3 hướng khác nhau. Người ta nói rằng Xi
Vưu có 3 con trai, và sau khi Cửu Lê thất thủ thì con trai
cả của ông dẫn một số người về phía nam, con trai thứ dẫn một số người về phía
bắc còn người con trai út ở lại Trác Lộc và đã bị đồng hóa theo văn hóa Hoa Hạ. Những người đi về phía nam
thành lập ra nhà nước San-Miêu. Có lẽ vì sự phân chia thành nhiều nhóm nhỏ nên
rất nhiều dân tộc ở Viễn Đông coi Xi
Vưu là tổ tiên của mình, và vì thế nhiều câu hỏi được đặt ra về
bộ tộc thực sự của Xi Vưu cũng giống như của người Miêu hay
các dân tộc khác. Ví dụ, người Triều Tiên cũng cho Xi
Vưu là tổ tiên của mình[cần dẫn nguồn]. Ngoài ra, theo chính sách hợp nhất
các bộ tộc hiện nay của Trung Quốc, Xi
Vưu được nhắc đến như là một trong những tổ tiên của người
Trung Hoa cùng với các tổ tiên của người Hán là Hoàng Đế và Viêm Đế[cần dẫn nguồn].
Các thời kỳ nhà Tần/Hán
Thuật ngữ "Miêu" lần đầu tiên được sử dụng
bởi người Hoa vào thời kỳ tiền Tần, tức là trước năm 221 TCN, để chỉ các nhóm bộ tộc
không phải là người Hoa ở phương nam[cần dẫn nguồn]. Nó thông thường được sử dụng trong
các tổ hợp như "nanmiao", "miaomin", "youmiao" và
"sanmiao" (三苗 Sānmiáo). Vào thời kỳ đó, những bộ tộc này sống ở phía nam
sông Trường Giang, nhưng sau đó đã bị người Hoa đẩy
lui xa hơn nữa về phía nam. Do phần lớn lãnh thổ của sáu triều vua (Đông Ngô,
Đông Tấn, tiền Tống, Tề, Lương, Trần) nằm ở phía nam sông này, việc khuất phục
người Miêu đã là mối quan tâm chính để đảm bảo sự ổn định của các triều đại
này. Với sự cướp bóc của Ngũ Hồ ở các khu vực phía bắc
con sông này, nhiều người Hán đã di cư xuống phía nam càng tăng cường thêm việc
đồng hóa người Miêu thành người Hán.
Thời nhà Đường
Vào thời kỳ nhà Đường, người Miêu đã không còn là bộ tộc
người chính không phải gốc Hán, ngoại trừ tại khu vực tỉnh Vân Nam ngày nay, ở đó 6 chiếu (詔 có nghĩa là "vương quốc")
của người Miêu. Một số học giả[cần dẫn nguồn] cho rằng 6 chiếu là
các nhóm người Di (Yi) hay người Bạch (Bai). Vương quốc nằm
phía nam nhất làMông Xá Chiếu (蒙舍詔) hay Nam Chiếu thống nhất cả 6 chiếu
để thành lập quốc gia độc lập vào đầu thế kỷ 8 với sự hỗ trợ từ
phía nhà Đường. Tước hiệu của người đứng đầu nhà nước
này là Nam Chiếu Vương (南詔王), có nghĩa là Vua của Nam Chiếu. Lo ngại về sự đe dọa ngày
càng tăng từ phía Thổ Phồn (ngày nay là Tây Tạng) đã thúc đẩy triều đình
Trung Quốc thiết lập một quan hệ hữu nghị với cả hai nước này. Nhà Đường cũng triển khai một khu vực
quân sự, là Kiến Nam tiết sứ (劍南節度 Jiànnán Jiédǔ) nằm ở khu vực ngày nay là phía nam tỉnh Tứ Xuyên và giáp biên giới với Nam
Chiế
Trong thời nhà
Minh và nhà
Thanh (1368-1911)
"miao" và "man" (mán) đã được sử dụng đồng thời, từ thứ hai
có lẽ là để gọi dân tộc Dao (傜 Yáo). Nhà
Nguyên, Minh và Thanh chưa bao giờ đồng hóa hay kiểm soát chặt chẽ được các bộ
tộc thiểu số[Kết quả là chính sách "dùng người man quản lý người
man" (yiyi zhiyi) đã được thực thi. Ngoài ra, bức tường bản sao của Vạn Lý Trường Thành ở miền nam đã được dựng
lên để bảo vệ và phân chia người Hán với những kẻ "man rợ miền nam" Về
mặt chính trị và quân sự thì người Miêu vẫn tiếp tục là viên sỏi trong chiếc
giày của đế chế Trung Hoa. Người Miêu đã có nhiều trận chiến chống lại người
Hán. Người Hán đã sử dụng các biện pháp chính trị để lừa gạt người Miêu, họ tạo
ra nhiều chức vụ với quyền lực thực sự cho người Miêu để lôi cuốn và đồng hóa
người Miêu vào hệ thống chính quyền Trung Hoa. Trong thời nhà Minh và Thanh, các chức vụ chính thức như Kaitong (cai
tổng) đã được tạo ra tại khu vực Đông Dương. Người Hmông có thể tham gia vào
các chức vụ này cho đến những năm thập niên 1900, khi họ phải tham dự vào hệ
thống chính trị thuộc địa của Pháp tại Đông Dương.
Dân số và địa bàn cư trú
Người H'Mông sống chủ yếu ở Trung Quốc. Ngoài ra
còn có khoảng 2.000.000 người H'Mông sống ở các nước khácnhư Việt Nam, Lào, Myanmacũng như các quốc gia khác.
Có khoảng 124.000 người sống ở Thái Lan, ở đây họ là một trong số 6
dân tộc chính sinh sống trên núi.
Sau năm 1975 cộng đồng người H'Mông di cư sang sinh
sống ở các nước như Mỹ, Pháp, Úc con số lên tới hàng
100.000 người (chủ yếu di
Người H'mông ở Việt Nam
Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc H'Mông
được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam. Dân tộc H'Mông cư trú thường ở độ cao từ 800 đến 1500 m so với mực nước biển
gồm hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo
biên giới Việt - Trung và Việt - Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An, trong đó tập trung chủ yếu
ở các tỉnh thuộc Đông và Tây bắc Việt Nam như: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn
La... Do tập quán du mục nên một số người H'Mông trong những năm
1980, 1990 đã di dân vào tận Tây Nguyên, sống rải rác ở một số nơi
thuộc Gia Lai vàKon Tum.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người H’Mông ở Việt Nam có
dân số 1.068.189 người, đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc ở Việt
Nam, cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người H’Mông cư trú tập
trung tại các tỉnh: Hà Giang (231.464 người, chiếm
31,9% dân số toàn tỉnh và 21,7% tổng số người H’Mông tại Việt Nam), Điện Biên (170.648 người, chiếm
34,8% dân số toàn tỉnh và 16,0% tổng số người H’Mông tại Việt Nam), Sơn
La (157.253 người, chiếm 14,6% dân số toàn tỉnh và 14,7% tổng số
người H’Mông tại Việt Nam), Lào Cai (146.147 người, chiếm
23,8% dân số toàn tỉnh và 13,7% tổng số người H’Mông tại Việt Nam), Lai Châu (83.324 người), Yên Bái (81.921 người), Cao Bằng (51.373 người), Nghệ An (28.992 người), Đăk Lăk (22.760 người), Đăk Nông (21.952 người), Bắc Kạn (17.470 người), Tuyên Quang (16.974 người),Thanh Hóa (14.799 người)[7].
Trên
thực tế cho thấy các cư dân H'Mông ở Việt Nam vẫn có
quan hệ với các
cư dân đồng tộc ở các nước khác, đặc biệt là những địa bàn sát biên giới giữa Việt
Nam với Trung Quốc và Lào. Một bộ phận đáng kể người
Hmông vẫn còn theo các lối sống truyền thống ở miền tây bắc Việt Nam. Với sự
gia tăng của du lịch vào các khu vực này trong những năm 1990 đã giới thiệu cho
nhiều người H'mông lối sống phương Tây, và trang phục
truyền thống của người H'Mông đang dần dần biến mất.
Các
tài liệu khoa học[cần dẫn nguồn], cũng như các truyền thuyết đều cho biết rằng người H'Mông là tộc người di cư vào Việt Nam sớm nhất khoảng 300 năm và muộn nhất là 100 năm về trước. H'Mông là tên tự gọi có nghĩa là người (Môngz). Còn các dân tộc khác còn gọi dân tộc này với
các tên Miêu, Mèo, Mẹo. Căn cứ vào đặc điểm về dân tộc học và ngôn ngữ học, người
ta chia tộc H'Mông ra làm các ngành: H'Mông Trắng (Môngz Đơư), H'Mông Hoa (Môngz
Lênhs), H'Mông Đỏ (Môngz Si), H'Mông Đen
(Môngz Đuz), H'Mông Xanh (Môngz Dua), Na Miểu (Mèo nước). Trong đó, cũng có ý kiến cho rằng H'Mông Hoa và H'Mông Đỏ là một[cần dẫn nguồn].
Văn
hóa ẩm thực
Mèn
mén, chế biến từ ngô hạt đem xay nhỏ, phải xay bằng cối đá và xay hai lần mới nhỏ mịn và khi đồ mới ngon. Đêm bột ngô vẩy nước
vào đảo đều với độ ẩm vừa phải, khi cầm nắm ngô bột không bị dính, cũng không bị
bở ra là được. Tiếp đó cho vào chõ đồ lần 1, đến khi hơi bốc lên thơm thì đổ ra
mẹt vẩy thêm một ít nước rồi đảo đều cho tơi ra, sau đó lại cho vào chõ đồ lần
2; khi có mùi thơm lừng bốc lên, khi đó mèn mén đã chín, bưng ra chỗ cao ráo để
ăn trong cả ngày.
Tục cưới hỏi
Nếu người bạn gái đồng ý thì hẹn bạn trai làm một
thủ tục Bắt vợ. Theo tục bắt vợ của người H'Mông, sau ba ngày bắt được vợ, người
con trai phải cùng bố mẹ đẻ đem lễ vật gồm thịt lợn, thịt gà, rượu sang nhà gái
để tạ ơn và làm vía thành hôn đồng ý cho hai người lấy nhau. Sau khi làm vía,
người con trai phải cùng vợ ngủ lại nhà gái một đêm rồi sáng mai mới được về sớm.
Bắt được vợ rồi thì hai người có thể về chung sống với nhau đến lúc nào có điều
kiện kinh tế khá giả thì mới tổ chức đám cưới, thậm chí có những đôi ở với nhau
có con rồi cưới cũng chẳng sao.
Ngày nay thủ tục này có phần thay đổi khác tiến bộ
hơn, tại Việt Nam thì biến đổi giống với người Kinh. Người con gái
tìm hiểu kỹ hơn, tự do lựa chọn người bạn đời.
Vi Đức Hồi (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét