"Pả
me" là nhân vật không thể thiếu trong ghi thức cưới hỏi của người Tày ở
Tuyên Quang. Đây là người thay mặt bố mẹ cô dâu thực hiện mọi lễ nghi trong đám
cưới.
Nếu
như trong đám cưới của người Kinh, đại diện nhà gái theo cô dâu về nhà chồng có
thể là nam giới hay nữ giới thì trong đám cưới dân tộc Tày, người đại diện là "Pả
me" - một người phụ nữ. Tuy nhiên, không phải người phụ nữ nào cũng có thể
đảm đương được công việc của "Pả mẻ".
Người làm "Pả me" trước
tiên phải là những người biết hát Văn "hết văn đảm bái" – hát văn đám
cưới. Họ thường là những người đứng tuổi, có đức độ, uy tín trong vùng, phải là
những người rất đứng đắn, lịch sự, có khả năng ứng đối, am hiểu phong tục tập
quán của địa phương. Ngoài ra, phải đáp ứng một số tiêu chuẩn như có chồng, gia
đình hạnh phúc, con cháu quây quần. Tuy vậy, người Tày vẫn có những ngoại lệ
cho người biết hát Văn dù không có con hoặc mất chồng… vẫn có thể làm "Pả
me" nhưng điều này phải được gia chủ lựa chọn.
Trong
ngày cưới của đôi trẻ, "Pả me" thay mặt bố mẹ cô dâu thực hiện mọi lễ
nghi. Đại diện nhà gái dẫn cô dâu, cùng 4 bạn gái đi đón rể. Với mỗi hoạt động
trong đám cưới như đưa của hồi môn, xin tiền qua cầu, xin phép tổ tiên, ra mắt
nhà chồng... "Pả me" sẽ có những bài hát Văn riêng. Khi đưa cô dâu về
nhà chồng có rất nhiều bài hát nghi lễ từ đón nhận của hồi môn của bố mẹ, vái lạy
tổ tiên... hay trước khi kết thúc nghi lễ, "Pả me" sẽ hát một điệu
hát "thắng lùa" để dặn dò cô dâu về cách làm ăn, cư xử và những điều
cần thiết khi về nhà chồng. Những bài hát Văn của "Pả me" vừa răn dạy
đạo đức, lối sống, vừa thể hiện sự tinh tế, thông minh, khéo léo trong cách ứng
xử, đồng thời là một hình thức giao lưu cộng đồng độc đáo.
"Pả me" thay mặt bố mẹ cô dâu thực hiện mọi lễ
nghi trong cưới hỏi.
Những
lời hát Văn của "Pả me" cũng như của "Quan làng" đã trở
thành một nét văn hóa độc đáo trong hôn lễ của người Tày. Không chỉ hát trong
nghi lễ chính của đám cưới, những bài hát Văn như "văn chồm bôm – hát trước
khi ăn cỗ cưới", "chậu nặm dào mừ – mời rửa tay trước khi ăn"… sẽ
được "Pả me", "Quan làng" hát để giao lưu lúc liên hoan. Nếu
không hát đối lại được thì sẽ phải chịu rượu phạt. Để mời rượu cũng như từ chối
rượu "Pả me" cũng có làm những bài văn "chối lẩu", "mơi
lẩu". Quan viên hai họ vừa là công chúng thưởng thức đồng thời là "ban
giám khảo" xét thưởng phạt những lời hát đối đáp này…
Khi
tiếng hát cất lên cũng là lúc mọi người bị cuốn vào cuộc, tạo nên không khi vui
vẻ, đoàn kết trong cộng đồng. Chính vì vậy nét văn hoá truyền thông mang đậm chất
nghệ thuật của đồng bào Tày rất cần được lưu giữ để không bị mai một bởi thời
gian. Có thể thấy, đây là một hình thức sinh hoạt cộng đồng rất độc đáo, đặc sắc
vừa giúp tăng cường sự giao lưu, gắn kết trong cộng đồng, vừa thể hiện bản sắc
văn hóa độc đáo của dân tộc Tày.
Văn Hóa Đông Bắc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét