Các thiếu nữ dân tộc Nùng hát sli.
Đồng bào Nùng có một kho tàng văn hóa dân gian phong phú
và có nhiều làn điệu dân ca đậm đà màu sắc dân tộc. Tiếng Sli giao duyên của
thanh niên Nùng Lạng Sơn hòa quyện vào âm thanh tự nhiên của núi rừng gây ấn tượng
sâu sắc cho những ai đã một lần lên xứ Lạng. Then là làn điệu dân ca tổng hợp
có lời, có nhạc, có kiểu trang trí, có hình thức biểu diễn đã làm rạo rực tâm hồn
bao chàng trai Nùng khi ở xa quê hương.
Lễ hội nổi tiếng thu hút được nhiều người, nhiều lứa tuổi
khác nhau là hội "Lùng tùng" (còn có nghĩa là hội xuống đồng) được tổ
chức vào tháng giêng hàng năm.
Nhà Tày - Nùng có những đặc trưng riêng không giống các
cư dân khác trong cùng nhóm ngôn ngữ Tày - Thái.
Bộ khung nhà Tày - Nùng cũng được hình thành trên cơ sở
các kiểu vì kèo. Có nhiều kiểu vì kèo khác nhau, nhưng chủ yếu là bắt nguồn từ
kiểu vì kèo - ba cột. Để mở rộng lòng nhà người ta thêm một hoặc hai cột vào
hai bếp vì kèo ba cột để trở thành vì kèo năm hoặc bảy cột. Song không có vì
kèo nào vượt quá được bảy cột.
Mặt bằng sinh hoạt của nhà Tày - Nùng trên cơ bản là giống
nhau: mặt sàn chia làm hai phần: một dành cho sinh hoạt của nữ, một dành cho
sinh hoạt của nam. Các phòng và nơi ngủ của mọi thành viên trong nhà đều giáp
vách tiền và hậu.
Nói đến nhà Tày - Nùng có lẽ không nên bỏ qua một loại
hình nhà khá đặc biệt, đó là "nhà phòng thủ". Thường là có sự kết hợp
gữa nhà đất và nhà sàn (đúng hơn là nhà tầng). Tường xây gạch hoặc trình rất dày
(40-60cm) để chống đạn. Trên tường còn được đục nhiều lỗ châu mai. Có nhà còn
có lô cốt chiến đấu. Loại nhà này chỉ có ở Lạng Sơn gần biên giới phía bắc để
phòng chống trộm cướp.
Đặc điểm trang phục: ít có biểu hiện đặc sắc về phong
cách tạo hình (áo nam giống nhiều dân tộc khác, áo nữ là loại năm thân màu
chàm, quần chân què ít trang trí). Điểm khác nhau giữa các nhóm, một trong những
biểu hiện là cách đội khăn và các loại khăn trang trí khác nhau đôi chút.
Hát soong hao – Nét văn hoá đẹp của dân tộc Nùng
Tiếng Nùng, soong hao có nghĩa là hai ta, đôi ta. Hát
soong hao là hình thức sinh hoạt dân ca trữ tình đối đáp nam nữ của các thế hệ
thanh niên dân tộc Nùng ở huyện Lục Ngạn và một phần ở các huyện Sơn Động, Yên
Thế, Lục Nam,tỉnh Bắc giang.
Hát then
Hát then là một thể loại ca nhạc tín ngưỡng của dân tộcTày,
Nùng. Có thể xem hát then là một cuộc diễn xướng trường ca mang màu sắc tín ngưỡng
tường thuật lại cuộc hành trình lên thiên giới để cầu xin ngọc hoàng giải quyết
một vấn đề gì đó cho gia chủ.
Các bản trường ca thường gồm nhiều chương đoạn với độ dài
ngắn và nội dung chi tiết ít nhiều khác biệt. Bản dài nhất đã sưu tầm được dài
tới 4949 câu với 35 chương đoạn.
Hát then là một hình thức diễn xướng tổng hợp bao gồm cả
ca nhạc, múa, diễn với nhiều tình huống khác nhau. Trong cuộc lễ, ngoài nhiệm vụ
thực hiện các nghi thức cúng, then hoặc giàng đồng thời phải đảm nhiệm chức
năng của một diễn viên tổng hợp. Họ vừa hát, tự đệm, vừa múa và diễn để thể hiện
nội dung các câu hát.
Âm nhạc luôn luôn là yếu tố xuyên suốt cuộc hát then. Hát
then có nhiều bài bản, làn điệu. Nhạc cụ đệm đơn giản song ở đây có thể gặp những
đoạn hát hai ba bè lý thú.
Dân tộc Tày, Nùng bất kể tuổi tác, giới tính, những người
mê tín cũng như không mê tín rất thích nghe hát then. Một vài tộc khác như
Mông, Việt ở trong vùng cũng tiếp nhận thể loại hát này trong đời sống tinh thần
của mình.
Hát sli - một làn điệu đặc trưng của dân tộc Nùng
Hát Sli (vả Sli) là một làn điệu đặc trưng của dân tộc
Nùng. Có thể kể đến một số kiểu loại chính như: Nùng Cháo có Sli Slình
làng, Nùng Giang có Sli Giang, Nùng Phàn slình có Sli bốc, sli Phàn
slình… Thực chất Sli (vả Sli) là một hình thức hát thơ (kiểu như Phong Slư của
dân tộc Tày nhưng cơ bản khác nhau về mặt tính chất). Sli của đồng bào Nùng được
coi là một thể loại trữ tình dùng trong các ngày hội, ngày chợ, ngày cưới, ngày
vào nhà mới…
Trước đây, đã là người dân tộc Nùng, hầu hết ai cũng biết hát Sli, yêu thích Sli bởi ngoài việc ví, đối … lời hát Sli còn được coi như tiếng hát giao duyên. Hát Sli thể hiện sự ứng đối tài hoa của mỗi người với những lời Sli ví von, bóng bẩy, tinh nghịch, xa xôi, ẩn chứa rất nhiều hàm ý… Đối với Sli giao duyên, thường do một đôi trai gái hoặc một vài đôi trai gái thể hiện theo lối đối đáp. Bao giờ cũng có người đứng ra Sli trước (kiểu mời gọi lĩnh xướng). Người hát trước thường là người có giọng vang, trong và phải có khả năng ứng đối khéo léo, tài tình và nhanh nhậy. Khi bên này vừa ngừng tiếng Sli (hỏi) thì bên kia cũng phải có người nhanh chóng cất lời Sli để đáp lại. Lời Sli đôi khi không chỉ bao hàm nội dung mượt mà, tế nhị của chuyện tình cảm ấm nồng, đằm thắm của bao đôi trai gái mà còn có cả muôn mặt của đời sống như các hiện tượng tự nhiên, các mốc thời gian cùng sự kiện nhân vật và lịch sử… đôi khi có cả những lời chào mời sang trọng, những lời thách đố kiêu ngạo, đáng yêu…
Về hình thức thể loại, nhìn chung Sli có những bài thơ có độ dài ngắn khác nhau. Có bài Sli chỉ khoảng 4 đến 8 câu, lại có những bài Sli dài đến hàng trăm câu, câu thơ thường chỉ có từ 5 đến 7 chữ. Vần của bài thơ được xác định bởi vần của chữ cuối cùng câu đầu tiên của bài thơ. Các chữ cuối cùng của các câu chẵn tiếp theo được gieo gối vần trên cơ sở hiệp vần với chữ cuối cùng câu đầu tiên.
Trước đây, đã là người dân tộc Nùng, hầu hết ai cũng biết hát Sli, yêu thích Sli bởi ngoài việc ví, đối … lời hát Sli còn được coi như tiếng hát giao duyên. Hát Sli thể hiện sự ứng đối tài hoa của mỗi người với những lời Sli ví von, bóng bẩy, tinh nghịch, xa xôi, ẩn chứa rất nhiều hàm ý… Đối với Sli giao duyên, thường do một đôi trai gái hoặc một vài đôi trai gái thể hiện theo lối đối đáp. Bao giờ cũng có người đứng ra Sli trước (kiểu mời gọi lĩnh xướng). Người hát trước thường là người có giọng vang, trong và phải có khả năng ứng đối khéo léo, tài tình và nhanh nhậy. Khi bên này vừa ngừng tiếng Sli (hỏi) thì bên kia cũng phải có người nhanh chóng cất lời Sli để đáp lại. Lời Sli đôi khi không chỉ bao hàm nội dung mượt mà, tế nhị của chuyện tình cảm ấm nồng, đằm thắm của bao đôi trai gái mà còn có cả muôn mặt của đời sống như các hiện tượng tự nhiên, các mốc thời gian cùng sự kiện nhân vật và lịch sử… đôi khi có cả những lời chào mời sang trọng, những lời thách đố kiêu ngạo, đáng yêu…
Về hình thức thể loại, nhìn chung Sli có những bài thơ có độ dài ngắn khác nhau. Có bài Sli chỉ khoảng 4 đến 8 câu, lại có những bài Sli dài đến hàng trăm câu, câu thơ thường chỉ có từ 5 đến 7 chữ. Vần của bài thơ được xác định bởi vần của chữ cuối cùng câu đầu tiên của bài thơ. Các chữ cuối cùng của các câu chẵn tiếp theo được gieo gối vần trên cơ sở hiệp vần với chữ cuối cùng câu đầu tiên.
Thông thường vần trong bài Sli đều là thanh bằng. Chẳng hạn
bài Hội chợ- Sli Phàn Slình ở hội chợ Xuân Dương(Na Rì): Vằn này bươn sham háng
nhì hả Dỉ noọng quẩy sẩy mại cần mà Shíp nhì bươn pi vằn toọc Đếch kế Sli cốc
tèo mà lầy… (Hôm nay ngày hội 25 tháng 3 Anh em ở gần xa về dự Cả năm chỉ có một
ngày như thế Trẻ già, trai gái tới cùng vui…) Có thể nói, Sli là một làn điệu
mang đậm dấu ấn bản sắc của đồng bào dân tộc Nùng. Đến nay, người biết hát Sli
không nhiều, nhất là Sli theo đúng nguyên bản ngày xưa. Đây chính là nét văn
hóa đặc sắc rất cần được bảo tồn và phát huy.
Vi Đức Hồi (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét