Thuở xa xưa,
khi đất còn pạc lạc, hồng hoan, xơ xác, rời rạc.
Nước còn bùng nhùng, pời lời, Trời còn mung lung puổng luổng, bỗng "mưa dầm mưa dãi", nước ngập
bao la núi đồi, 50 ngày nước mới rút, tự nhiên mọc lên một cây xanh có 90 cành,
có một cành chọc trời, biến thành ông Thu Tha, bà Thu Thiên. Hai thần truyền lệnh
làm ra đất, trời và muôn vật.
Tức thì
mưa to gió lớn chín mười ngày đêm, nước ngập bao la. Bảy tháng sau, nước rút. Một
cây si khổng lồ mọc lên có 1919 cành. Trời sai con sâu gang khoét rỗng ruột cây
si. Cây đổ, mỗi cành hoá ra một bản mường:
"...
Một cành đổ về đất Sạp
Nên
mường Sạp,
Một
cành đổ về đất Giạp
Nên
mường Giạp,
Một
cành ngã về đất Bi, đất Lỗ
Nên
mường Bi, mường Lỗ
Một
cành đổ về đất Ống, đất Sà,
Nên
mường Ống, mường Sà...".
Có một
cành si hoá ra mụ Dạ Dần, mụ đẻ ra 2 cái trứng vô cùng kì dị nở ra cun Bướm Bạc,
và cun Bướm Bờ. Cun Bướm Bạc vừa mới nở đã ăn hết 9 chõ cơm, cun Bướm Bờ mới
sinh đã ăn hết năm (5) chõ xôi:
"...
Cun Bướm Bạc, cun Bướm Bờ
Lớn
cao hơn đụn chín, đụn mười
Tiếng
cười như tiếng trống cái
Tiếng
nói như tiếng sấm vang
Xương
vai dài tám mươi lóng
Xương
sống dài bảy trăm gang..."
Rồi một
thiên diễm tình đã xảy ra. Vua Trời cho 10 nàng tiên xuống trần gian du
ngoạn. Cun Bướm Bạc và cun Bướm Bờ cưỡi ngựa bạc, vác ná đi săn lợn rừng, gặp
các nàng tiên "lưng ong, tóc mượt". Tự tình và say mê.
Hai nàng tiên quên đường về trời. Họ nên vợ nên chồng. Sau 12 năm, 9 tháng, 2
nàng tiên sinh ra một bầy con, mà "Trống chim Tùng, mái chim Tót
là con út, con yêu". Đôi chim thần sau "9 ngày, 9
đêm, 9 tháng" đẻ ra 1919 chiếc trứng, nở ra Thần Chớp, Thần Mây,
nở ra chuột, lợn, voi, cá, thú dữ... Đôi chim lại đẻ lứa thứ hai "Được
một trứng đen đen bốn khúc, Trứng bầu dục bốn khuông, Mặt vuông, mặt tròn, chín
cạnh, Rành rành mười hai quai..."
Mụ
Dạ Dần phải nhờ chim chiền chiện ấp.
Trứng nở
ra một bầy con, mỗi đứa nói một thứ tiếng: - Tiếng Lào, tiếng Kinh, tiếng Mọn,
tiếng Siên-quan (Mường), tiếng Thái, Mán, Mẹo,v.v... Có trứng nở ra anh em nhà
lang:
Ông Dịt
Dáng, ông Lang Tà Cái, ông Lang Cun Cần, bố Bướm Khang, ông Sạng Si, nàng Vạ
Hai Chiếng... Loài người có từ đấy. Bộ tộc Mường có từ đấy.
Thần Cuộng
Minh Vàng Rậm, nàng ả Sấm Trời đúc 9 mặt trời, đúc được 12 mặt sáng (trăng). Đất
trời chói chang, gay gắt. Họ nhà Ngao (thần Nỏ) dùng cung tên bắn rụng hết, chỉ
để lại một mặt trời, một mặt trăng cho mường nước. Rồi ông Thu Tha, bà Thu
Thiên làm ra năm tháng, ngày đêm, bốn mùa cho con người theo đó làm ăn sinh sống.
Người
Mường chưa có thủ lĩnh. Mường nước mời ông Dịt Dáng, rồi mời
ông Lang Tà Cái ra "cầm binh cầm
mường". Nhưng cả hai đều bất tài nên đã bị ma đón đường, bị thuồng luồng
xanh, rồng vàng ngăn ngõ. Mường nước mời Lang Cun Cần ra tiễu trừ ma quỷ, thú dữ:
"...
Ma chạy từng bầy trốn vào trong núi
Ma
rồng sợ Lang Cun Cần trói
Thuồng
luồng sợ Lang Cun Cần chặt
Ma
Trời, ma Đất cùng chạy nhanh nhanh..."
Lang Cun
Cần trở thành thủ lĩnh từ đó. Rùa thần giúp Lang dựng nhà cửa to đẹp. Tà Cắm Cọt
(thần Lửa) cho Cun Cần lửa. Nàng Tiến Tiên Mái Lúa (thần trồng trọt) giúp Lang
nhiều hạt giống để cấy trồng.
Lang Khấm
Dậm bày cho cách làm men ủ rượu cần. Mụ La, mụ Húng (thần chăn nuôi) dạy cho mường
nước nuôi gia súc, gia cầm. Mường nước có trâu bò cày ruộng làm nương.
Hai
chương 17, 18 với 1263 câu thơ kể chuyện Lang Cun Cần lấy vợ. Lần thứ nhất, lang
lấy nàng Vạ Hai Chiếng là em gái của mình, bị làng bản coi khinh, bị vua Trời
sai cun Sấm nàng Sét xuống trừng phạt may mà thoát chết. Sau đó Lang Cun Cần phải
đưa nàng Vạ Hai Chiếng bỏ vào rừng. Lần thứ hai, Lang sai người đi khắp mọi
nơi, mang theo lễ vật để đi tìm gái đẹp con dòng. Lang lấy được nhiều vợ: có vợ
là con gái vua Trời, có vợ là con gái thần tiên, có vợ là con gái mường nước.
Lang Cun Cần có một bầy con:
"...
Nàng Vậm Đầu Đất
Đẻ
được Cun Tồi, cái sang
Nàng
Vậm Đầu Nước
Đẻ
ra Cun Tàng, cái lớn
Nàng
Ả Sao, Ả Sáng
Ả
Rạng nhà ông vua Trời
Đẻ
được Lang Cun Khương
Ả
gái nuôi trong mường
Đẻ
ra chàng Toóng-Ín..."
Con cái trưởng thành, lang chia đất cho các con.
Tôi tớ của
Lang là Tậm Tạch tìm được cây Chu đồng (cây thần), lấy được "bông thau-quả thiếc" mà
trở nên giàu có. Anh em Lang Cun Khương lập mưu chuốc rượu cho Tậm Tạch, lừa lấy
được "bông thau - quả thiếc". Rồi Lang đưa cả mường nước đi chặt cây
chu kéo về làm nhà chu. Tậm Tạch bị Lang giết. Rùa thần lại giúp Lang làm
nhà chu "Sáng cả mường, kinh kì kẻ chợ...","rạng
trời rạng đất..." Lang giết 10 voi ngà, 30 trâu mộng, 9 bò, 700
gà sao, nấu 1000 vò rượu, để ăn mừng. Lang Cun Cần ban thưởng cho các con nhiều
vàng bạc quý giá.
Con của Tậm
Tạch lập mưu đốt cháy nhà chu để báo thù. Chúng bị Lang giết, máu hoá
thành con Moong dữ phá quấy bản mường, gây ra tai hoạ khủng khiếp.
Mường nước
phải theo Lang đi săn Moong-Lồ trải qua bao gian khổ, nguy hiểm mới giết được.
Moong được giết thịt, người Lào, người Thái, người Tày, người Mường nhanh chân
lấy được da Moong vằn vện mà học được cách thêu thùa, dệt vải rất đẹp.
Người
Kinh đến sau, lấy được thịt và mỡ Moong từ đấy biết nấu nhiều món ăn ngon. Người "Mường-ngoài"
(Hoà Bình) đến quá muộn, chẳng lấy được thứ gì, chỉ nhìn thấy đống tro thú
Moong. Chẳng may, gió táp tro bay dính vào môi, nên môi người "Mường-ngoài" đen
từ đó.
Tai hoạ
còn nhiều. Chó ăn phải phổi Moong lồ thành chó điên. Chó điên bị giết, xác bị
quẳng xuống sông, cá ăn vào cá biến thành điên, cá dữ. Cun Khương cùng mường nước
lại đi săn. Cá điên bị giết, bầy quạ ăn phải thịt cá điên biến thành quạ điên.
Săn lùng mãi, Lang Cun Khương mới bắn trúng tướng quạ, cả bầy hoảng sợ bay trốn
vào rừng sâu.
Nhưng rồi
hồn Toóng-Ín lại biến thành Ma Ruộng, đưa bầy rắn "mỏ vàng, mỏ đỏ" lên đánh 3 anh em Lang Cun Khương. Quân
hai bên kịch chiến suốt ngày. Đánh nhau giữa ruộng, quần nhau trên đồi gianh,
đuổi nhau trong rừng sến, hỗn chiến bên sông Rồng... Toóng-Ín thất thế chạy xuống
Thuỷ phủ Long Vương ẩn náu và xin cầu viện. Long
vương cho hồn Toóng-Ín làm Ma-May, Ma-Lang. Hắn đưa binh mã gồm thuồng luồng,
ba ba, cá ngao... dâng nước làm lũ lụt, dìm chết được Lang Cun Tàng. Lang Cun
Khương cùng mường nước nổi chiêng cồng, đem giáo mác, cung nỏ, lưới... vây các
ngả sông đón đánh. Giặc Ma May, Ma Lang đại bại, bỏ lại trên bãi chiến trường
bao xác rồng vằn vện, làm thối cả bản mường...
Từ đó mường nước được sống trong hoà bình, yên vui, thịnh vượng. Trẻ già,
trai gái nô nức lo xống áo, lo kiệu lo ngai, rước vua về "Đồng chì
tam quan kẻ chợ".
Sử thi "Đẻ Đất Đẻ Nước" của dân tộc Mường, có những tương đồng lớn
với lịch sử dân tộc Việt Nam , và sự
hình thành Đạo Cao Đài. Hy vọng người Tín đồ Cao Đài sẽ thấm sâu để nhận diện
giá trị cùng điểm đứng trên cõi thế gian này.
* Biên tập Huỳnh Tâm & Ghi lại Nguyễn Văn An.
I
MỞ ĐẦU
Nói một chuyện đời xưa
Trên đồi ta nói với con bướm bạc
Dưới nước, ta nói với con chạng kha[1]
Trên trời, ta nói với sông Ngân Hà
Trong cửa trong nhà
Người già truyền cho con cháu.
* * *
Ngày xưa, ngày ấy
Dưới đất, chưa có đất
Trên trời, chưa có trời
Trên trời chưa có ngôi sao đỏ đỏ
Dưới đất chưa có ngọn cỏ xanh xanh
Đất còn rời rạc
Nước còn bùng nhùng
Ngó lên, trông xuống mịt mùng
Con người ngày đó
Chưa nên chưa có
Thứ gì cũng chưa có chưa nên
Gió ầm ầm chưa qua
Rừng cây chưa có lá
Trên đất chưa có con bướm bạc
Mặt nước chưa co con chạng kha
Trong cửa trong nhà
Chưa có ông già truyền đi nối lại.
* * *
II
ĐẺ ĐẤT
Muốn ăn cơm phải tìm giống gieo mạ
Muốn ăn cá phải tát suối, tát ao
Muốn biết vì sao có đất đỏ, đất nâu
Phải bảo nhau ngồi nghe truyện kể
Ngày xưa ngày ấy
Trông trời, trời bao la rộng rãi
Trông đất, đất vắng vẻ trống không
Đồn rằng:
Có một năm mưa dầm mưa dãi
Nước vượt khỏi đồi U
Nước dâng tràn đồi Bái
Năm mươi ngày nước rút
Bảy mươi ngày nước xuôi
Mọc lên một cây xanh xanh
Có chín mươi cành
Cành chọc lên trời lá xanh biết cựa
Thân trên mặt đất, thân cây biết rung
Trong tán trong cành có tiếng đàn bà con gái
Cành chọc trời là con đầu
Tên gọi ông Thu Tha
Cành bung xung là con thứ hai
Tên gọi bà Thu Thiên
Hai ông bà nên đôi nên lứa
Truyền cho:
Con gà có cựa
Dây dưa biết leo
Tre pheo có gai, có ngọn
Con người biết nói
* * *
Khi đó dưới đất không còn rời rạc
Dưới nước không còn bùng nhùng
Trời không mông lung
Trông lên ngó xuống đã có nơi, có chốn
Đã có
Lối đi xuống
Đường đi lên
Luồng muốn dậy đã có ngãnh
Cau muốn dạy đã có mo ne
Dây củ mài muốn dây leo vắt vẻo
Dây sắn muốn dây néo buộc
Đã có nơi néo buộc
Con thác muốn dậy đã có con sao
Con sao muốn dậy, đã có trời sáng
Con nhà con người muốn dậy, đã có
em có anh
Đạo làm vua không tranh
Đạo làm người không cướp
Vua đã yêu, chúa đã chuộng
Đã có người vụng người tài
Đã có người trai người gái
Đồi có bãi đã có thú to
Rừng thưa đã có chim nhỏ
Dưới nước
Đã đẻ con cá, con tôm
Đầu hôm đã sinh con rùa
Tối ngày đã sinh con rái
Dưới đất,
Cái gì cũng có
Gió ầm ầm đã nghe
Mưa le re đã thấy
Thứ nào muốn dậy đều nên thân nên
hình
Đất đã có
Đất rộng thênh thang
Chuyện chưa kể nên một gang
Chuyện chưa kể sang một lẽ
Người già người trẻ
Lại nghe chuyện đến chuyện đi
Lại nghe chuyện xưa chuyện cũ
Người ở sướng, ăn ngon
Cũng có đứa khôn, thằng dại
Người khôn nghe kể lại
Thằng dại nghe vội nghe vàng
Phải chờ nghe thêm
Chuyện đẻ nước.
* * *
III
ĐẺ NƯỚC
Con gà gáy trên đèo xao xác
Con ác kêu trên núi oang oang
Mặt trời lên, sáng rừng sáng bãi
Sáng cả chín đất, mười phương
Làm mùa không ra cơm
Lưới chài không ra cá
Nóng quá
Đất xác xơ
Đất cằn cỗi hanh khô
Dây sắn úa hết lá
Cây cau úa hết tầu
Rừng vàu không mọc măng
Con chim mò xuống đất
Con thú mò xuống nước
Chó thè lưỡi
Rái cá chạy lên đồi
Hạn chín tháng trời
Nắng mười hai năm xác đất
Cạn suối, vỡ mai ba ba
Khô đồi, gẫy sừng hươu,
Nắng nhiều, cây hết lá
Nắng cả đất hết cỏ
Trâu ăn đất cóng
Người uống nước sương
Gà rừng kiếm nước ở mắt lóng
bương
Ông Pồng Pêu (thần nước)
Ngồi đan lưới đan chài ở cửa sổ
Trông ra ngoài ngõ
Trông lên trên trời
Ông Pồng Pêu ao ước
Ước ơi là ước
Ước sao được một trận mưa
Mưa dầm dề chín đêm mười bữa sáng
Mưa rào rào chín buổi sáng mười
đêm
Mưa ở giữa đồng
Mưa vòng ra bờ suối
Mưa xói núi
Mưa mòn gò
Mưa từ chân trời này
Mưa sang chân trời nọ
Mưa mưa, gió gió
Mưa ngập ruộng sâu ruộng cạn
Mưa tràn bờ suối, bờ cao
* * *
Đồn rằng khi đó
Trời kéo mây ùn ùn
Trời đùn mây kìn kìn
Gió ầm ầm bốn bên
Mây ùn lên từng đống
Mây kéo chồng từng mảng
Mây mưa, mây gió
Mây đen, mây vàng
Nghe cơn gió vù vù
Nghe ù ù cơn mưa
Tiếng thần sấm thét xuống
Nữ thần sét xuống gào
Đầu đêm mưa to bằng hột cà
Sáng ra mưa to bằng quả bưởi
Mưa dù mưa dịn
Mưa chín đêm
Mưa liền chín ngày
Mưa bẻ cành, gẫy lá
Mưa rước nàng Ngâu về trời
Mưa đưa chàng Ngâu qua sông Ngân
Mưa rửa sừng đàn nai
Mưa sạch lông chim phượng
Hôm đầu mưa ngập bụi
Hôm sau mưa ngập cây
* * *
Bốn tháng nước rút
Bốn tháng nước xuôi
Nước chín đồi đổ về một biển
Nước mười đồi đổ về một sông
Nước làm khó làm dễ
Xới đất đen lên bằng miệng ang
Xới đất vàng lên bằng miệng thúng
Trôi đàn cua đá
Trôi đàn cá trong hang
Trôi đàn ba ba đi thăm suối
Trôi đàn cá chuối đi thăm vực
Trôi đàn nòng nọc đi thăm đầm
Trôi đàn cá cơm đi ra bể rộng
Nước rút, nước xuôi
Nước dậy, nước đi
Có đất, đất đang xơ xác
Có nước, nước còn đục ngầu
Người khôn nghe kể lại
Người dại nghe vội nghe vàng
Phải chờ nghe thêm - Đẻ Cây Si
* * *
IV
ĐẺ CÂY SI
Đất chẳng ngấm nước, đất đã tơi
Đất đồi ngấm nước, đất đã bở
Cây Si mọc lên rờ rỡ
Cây Si lớn lên nhanh nhanh
Đầu hôm, Si bằng thân chày
Sáng ngày, Si bằng cây lim
Cây Si mọc bốn cành chìm
Cây Si mọc ba mươi cành nổi
Có một cành chót vót
Có một lá chon von
Vút thẳng, vút lên
Cha con Trời thấy lạ
Đang ngồi trên cửa sổ
Uống rượu khề khà
Trông xuống gầm nhà
Thấy Si mọc lên lồ lộ
Thấy Si mọc lên xum xuê
Che kín một bên đất
Che kín một bên trời
Trần gian phơi lúa không khô
Phơi rau không ráo
Gai mắt, Trời muốn phá
Gai mắt, Sét muốn phang
Nhưng sợ hư ruộng mạ
Hỏng ruộng khoai
Trần gian chết đói
Bố con Trời cạp thép vào miệng sâu Gang
Cạp vàng vào miệng sâu Hốc
Sai sâu Hốc xuống ăn hết da
Sai sâu Gang đục hết lõi
Từ đó
Sâu Hốc xuống ăn da
Sâu Gang xuống ăn ruột
Cắn gốc móc lồng cây Si
Cây Si héo rũ
Cây Si úa vàng
Rễ Si đã mục
Gốc Si đã đổ
Cành Si đã lấp đầy thung lũng
Đầu Si gẫy vật lên đồi Chu [2]
Chuyện đó đã rồi
Hồi đó đã xong
Lại nghe chuyện cây Si long gốc
Lại nghe chuyện cây Si mục cành
Đẻ ra mường, ra nước.
* * *
V
ĐẺ MƯỜNG
Cây Si chết ra điềm hay điềm gở
Trong năm đó
Thân Si mục
Hóa thành rắn nhiều đầu
Đuôi rắn ở rốn núi
Đầu rắn ở đồi Chu
Chạm phải rắn, rắn cắn, rắn thù
Rắn cắn chảy máu đen
Máu đen thành con vắt
Mắt Si lồi hóa thành con ong
Ong bạc đầu, nọc dài chín gang
Lưng ong dài chín sải
Gặp hổ nai, ong lùng ong đuổi
Lá Si nát hóa ra thú muông
Thú dữ như hổ lang
Muông hiền như chồn cáo
Gốc Si đổ ầm ầm
Rễ Si đổ ình ình
Đổ một nghìn chín trăm mười chín
cành
Một cành đổ thành đất Sạp
Nên mường Sạp[3]
Một cành đổ thành đất Giạp
Nên mường Giạp[4]
Một cành đổ thành đất Bi, đất Lỗ
Một cành đổ thành đất Óng, đất Sà
Một cành ngả về đất Vong
Nên mường Vong[9]
Một cành đổ về đất Khoòng, đất Đẹ[10]
Một cành đổ về đất Cò Ké, Tiên Lẵng[11]
Một cành đổ về đất Băng, đất Bịn[12]
Một cành đổ về đất Lập, đất Yến[13]
Một cành đổ về đất Khi, đất Dồ[14]
Một cành đổ về đất Én, đất Khò[15]
Một cành đổ về đất Ai, đất Khạ[16]
Một cành đổ về đất Nát, đất Trào[17]
Một cành đổ về đất Mo, đất Bói [18]
Một cành ngã về đất Khói [19]
Một cành ngã về đất Kim [20]
Một cành ngã về đất Nang [21]
Một cành ngã sang đất Đèn, đất Chẹ [22]
Một cành ngã về đất Vẩm
Một cành đâm sang đất Lụt, đất Lổ
Một cành ngã về đất Vống
Một cành ngã sang đất Sàng, đất
Tông
Một cành ngã về đất Bằng, đất Ún
Một cành ngã về đất Khao
Một cành ngã về đất Ao
Một cành ngã sang đất Cợi
Một cành ngã về đất Vịn
Một cành ngã về đất Ấm
Một cành ngã sang đất Đủ, đất Ó
Một cành ngã về đất Già
Một cành ngã sang đất Rặc
Một cành ngã về Hao Hao
Một cành ngã vào đất Én
Một cành ngã lên đất Ngón
Một cành vòng lên Lau, lên Khụ
Một cành rủ về đất Khói, đất Nen
Một cành trỏ lên Vin Vơng
Một cành sang mường Vang, mường
Vó
Một cành sang mường Tráng, mường
Tre
Một cành về đất Vành
Một cành về mường Chín
Một cành về mường Rồng
Một cành chót thì nên mường Mê,
mường Man[23]
Còn một cành xanh non
Vẫn trơ trơ, sừng sững
Đòi về đất Sấm, đất Sét, đất ông
Nhà Trời.
* * *
Đất đã có
Đất chẳng còn nên xơ xác
Nước đã có
Nước chẳng còn tiêu điều
Trời đã có
Trời không còn mông lung
Có đất, có nước, có mường
Nhưng loài người chưa có
Nghe chuyện cho tỏ
Kể chuyện cho tường
Nghe chuyện đẻ người
Đoạn sau sẽ kể.
* * *
VI
ĐẺ NGƯỜI
Cây si mục
Cành loà xoà hóa ra chân tay mụ Dạ
Dần[24]
Cành lù xù hóa ra đầu mụ Dạ Dần
Cành thia lia hóa ra tai, ra mắt
mụ Dạ Dần
Cành sừng sững hóa ra ngực, ra
lưng mụ Dạ Dần
Mụ Dạ Dần
Miệng hay đòi ăn cá
Dạ hay đòi ăn cơm
Miệng nói lời dạy bảo
Dạ nghĩ điều khôn ngoan
Mụ ở dưới đất nên thấp
Muốn cất lên trời cao cao
Mụ ăn, mụ đẻ
Mụ đẻ ra hai trứng
Một trứng nở ra Cun Bướm Bờ
Cun Bướm Bạc vừa nở
Đã ăn chín chõ cơm[26]
Người lớn bằng cái thúng[27]
Cun Bướm Bờ mới sinh
Đã ăn hết năm chõ xôi
Người lớn bằng cái nia[28]
Năm tháng qua
Hai anh em cao hơn đụn chín, đụn
mười[29]
Tiếng cười như tiếng trống cái
Tiếng nói như tiếng sấm vang
Xương vai dài tám mươi lóng
Xương ống dài bảy trăm gang
Có tướng làm đạo, làm cun, làm
lang
Một năm vua Trời cho con gái xuống
chơi qua
Ba năm vua Trời cho con gái xuống
thăm lại
Con gái Trời gọi là Tiên
Tiên xuống trần đi chơi bông chơi
hoa
Một sáng Tiên xuống cành mây mưa
Một trưa Tiên xuống cành mây gió
Tiên bay xuống tắm
Tắm bờ sông Tằm sông Tè
Ả Tiên đi ra đường rộng
Ả Tiên đi xuống đường quang
Thấy cun Bướm Bạc
Thấy chàng Bướm Bờ
Chàng cưỡi ngựa vàng
Thấy chàng Bướm Bạc
Thấy cun Bướm Bờ
Cun cưỡi ngựa trắng
Nàng ả, nàng hai muốn hỏi thăm đường
Còn nghe nể con trai
Liền tránh lại một mé
Ké sang một bên
Cho ngựa ngài đi tới
Hai cun đi hẳn
Gặp được bà nàng con mái
Thấy người lạ muốn hỏi
Thấy người đẹp muốn ướm lời
Rằng:
- Người ở đất mường nào?
Mà đẹp dáng, đẹp người, lưng ong,
tóc mượt
Cun em giật cương cho ngựa dừng lại
Cun anh kéo cương cho ngựa dừng
đi
Cùng mở lời chào:
- "Các nàng ở đất mường nào?
Mà qua rừng nhà tôi một sớm
Cho đất mường tôi tốt thêm lộc
nuôi tằm
Mà các nàng đến thăm
Cho rừng dâu nhà tôi xanh kín lá
Cho suối lắm cá nhiều tôm
Cho con sao Hôm về chậm
Cho con sao Mai đến nhanh
Cho con chim nhảy nhót hót trên cành
Hót lời thương lời nhớ
Chị em nghe lời đó,
Cùng giục nàng ả nàng hai:
- "Hai chàng thưa chào
Chào ta như sao thức sao
Ta mất lòng nào mà chưa lên tiếng
Ra mà thăm mà nhìn
Ra mà chào mà thưa
Nghe thấy vui vui thì hãy đứng lâu
Nghe thấy ma cậu, ma cô thì đi ngay bõ ghét".
Nàng ả nàng hai
Đi ra đường cái
Đi lại đường con đứng đợi
Nàng ả nàng hai
Bước ra cúi đầu thưa lại:
- "Thưa ngài cun cả
Thưa ông cun hai
Chị em đâu dám tìm đường lẩn tránh
Chị em muốn về mường Đủ, mường Khói
Lạc lối bước đến vườn nhà ngài
Hai ngài mở lòng thương cùng
Thì cho chúng em vài tiếng nói".
Cun Bướm Bạc nói rằng:
- Các nàng đã quá chân về đây
Đã nhúng chân vào đất nghèo
Chẳng ngại đất khô bám dính
Xin bước chân về giếng
Xin quá chân về nhà
Đất khó, mường nghèo
Nhưng ngõ còn thông thống".
Nàng ả đi xuống
Cun Bướm Bạc dắt ngựa đi xuống
Nàng hai bước ra
Cun Bướm Bờ dắt ngựa đưa ra
Ở trên đỉnh núi đá Voi Nằm
Còn gọi là đỉnh Non Tiên
Hàng ngàn chị em đã nóng lòng đợi
hai chị
Càng đợi càng lâu
Càng lâu càng vắng
Lắng chị càng bặt tăm
Trống nhà Trời đã điểm canh năm
Trống nhà Trời đã báo giờ cấm
Đành lòng hai chị vắng
Các tiên nàng vội vã về nhà Trời
Chị em lúc đi đông đủ
Lúc về bỏ lại hai
Cửa con, trời đã cài
Cửa lớn, trời đã đóng
Nàng ả, nàng hai
Tai nghe cửa đóng sập
Tai lắng cửa cài then
Đành ở lại đây, nơi trần gian mường
dưới
Cun Bướm Bạc lấy được nàng ả
Nên họ Lang
Cun Bướm Bò lấy được nàng hai
Nên họ Dân
Chín tháng mười hai năm
Các nàng sinh con nối dõi
Thứ nhất, sinh ra cun Khổng Làng
Thứ hai, sinh ra cun Khổng Và
Thứ ba, sinh ra cun Khổng Tập, Khổng Tồi
Thứ tư, sinh ra cun Khổng Em, Khổng Anh
Thứ năm, sinh ra cun Khổng Lẫm, Khổng Lồ
Thứ sáu, sinh ra cun Khổng May
Thứ bảy, sinh ra cun Khổng Lốt
Thứ tám, sinh ra cun Chàng Vàng
Thứ chín, sinh ra lang Chàng Xế
Thứ mười, sinh ra Trống Chim Tùng, Mái Chim Tót
Trông Chim Tùng
Mái Chim Tót
Là con út con yêu.
* * *
Lại kể chuyện Trống Chim Tùng,
Mái Chim Tót
Không có nơi ăn
Chẳng có nơi ở
Đậu cành dâu da, đứt cành dâu da
Bám dây Ta Tến, đứt dây Ta Tến[30]
Chim Tùng, Chim Tót
Định ra bến để nuốt lá ngón cho
chết
Chết đi cho đỡ khổ
Định ra rừng dang thắt cổ
Chết đi cho đỡ nhục đỡ thương
Ra đường quang, sân rộng
Trống Chim Tùng, Mái Chim Tót
Gặp mụ Dạ Dần hay lo
Gặp mụ Dạ Dần hay thương hay bảo
Rằng:
- "Hai cháu đừng ra rừng mà
sợ con gấu
Đừng vào thung mà sợ con cọp
Con mái thì tìm chỗ mát rỉa lông
Cho nên đá hang Trống[31]
Con trống thì ra rỉa mỏ
Cho nên đá hang Hao
Đi đào đất cho nên sông sâu ruộng rộng
Cho có nơi mà ăn
Cho có nơi mà ở
Chớ đi liều thân mà khổ"
Nghe lời mụ Dạ Dần
Con Mái đã ra rỉa lông
Con trống đã ra rỉa mỏ
Đã có nơi mà ăn
Đã có ngăn mà ở
Đã có chỗ chơi
Ban sáng chim đi xem
Mụ Dạ Dần dệt lụa
Buổi chiều chim đi xem
Mụ Dạ Dần dệt gấm
Lụa mụ Dạ Dần có chấy có rận
Gấm mụ Dạ Dần có bọ chó, bọ ma
Chim xem chim đã rõ
Chim ngó, chim đã tường
Trống Chim Tùng, Mái Chim Tót
Về nhà học dệt lụa
Học dệt gấm
Lụa của Chim Tùng không có chấy có rận
Gấm của Chim Tót chẳng có bọ chó, bọ ma
Mụ Dạ Dần lại bảo:
- "Các cháu phải nghe
Con mái bay vào núi đá hang Trống
Đục lấy chín phiến đất
Con trống bay vào núi hang Hao
Đục lấy chín phiến đất
Đục thành hốc, thành lỗ
Con trống bay vào sông Cái
Cặp lấy chín nén cỏ Bái
Con mái bay xuống sông con
Cõng lấy mười nén cỏ gianh
Về khoanh đi khoanh lại làm tổ
Tổ tròn như mặt trời
Tổ rộng như cửa sông
Miệng tổ cao như quả núi
Cuối tổ như mái nhà sàn
Đầu tổ như mái nhà trước
Đi vào phải nhẹ bước
Đi ra phải nhẹ chân
Đáy tổ to bằng miệng sông miệng bể"
Được ngày, được tháng
Chim Tùng, Chim Tót vào hang vào ổ
Vào tổ đẻ trứng
Chín ngày, chín đêm, chín tháng
Được một nghìn chín trăm mười chín trứng tốt
Còn một trứng bảy góc, chín cạnh, mười khuông
Đó là trứng ung, trứng xấu
Chim Tùng ấp chín mươi ngày bặt tăm
Chim Tót ấp chín mươi ngày bặt tích
Trứng không hé không nở
Trứng không nở nên con
Chim Tùng, Chim Tót nổi giận hầm hầm
Đem trứng đi bỏ
Bỏ một trứng lên trời
Nở ra ông thần Chớp
Ném một trứng lên trời
Nở ra ông thần Mây
Ném một trứng dài dài
Nở ra nòi chuột chù
Ném một trứng to to
Nở ra nòi con lợn
Ném một trứng lùn lùn
Nỏ ra loài con voi
Ném một trứng loi ngoi
Nở ra nòi con cá
Ném một trứng vào lá
Nở ra nòi thú dữ trong rừng
Ném một trứng ra chuôm
Nở nên họ hàng cây cỏ
Ném một trứng lên đồi đất đỏ
Nở ra họ cây nứa
Trống Chim Tùng, Mái Chim Tót
Tháng tư lại đi xem
Mụ Dạ Dần dệt lụa
Tháng ba lại đi xem
Mụ Dạ Dần dệt gấm
Dệt gấm dệt lụa chưa xong
Trống Chim Tùng, Mái Chim Tót đã mang trứng
Được ngày được tháng
Chim Tùng, Chim Tót lại vào ổ đẻ
Lại vào tổ ấp trứng
Ấp bốn mươi chín ngày bặt tăm
Ấp năm mươi ngày bặt tích
Được một trứng đen đen bốn khúc
Trứng bầu dục bốn khuông
Mặt vuông, mặt tròn chín cạnh
Rành rành mười hai quai
Trứng này là trứng "Giống", trứng
"Dòng"
Là nòi trứng nên ông, nên người
* * *
Chim Tùng, Chim Tót
Ra đường về tổ
Trả ổ cho mụ Dạ Dần
- "Trứng mụ đem cất
Con mụ chăm nom"
Mụ Dạ Dần chạy đi rao chín tiếng
- "Hỡi đất ma nhà trời
Hỡi chim côi chim góa
Ai bay vào hang Trống
Ấp cho nứt trứng
Ấp cho nở trứng Chiếng
Mai sau
Ta cho áo xống
Ta cho vàng bạc
Ta cho ruộng sâu
Ta cho ruộng mùa"
Khi đó, ở đất ma nhà trời
Đất chim côi, chim góa
Có con Bìm Bịp lành lòng
Có con Công lành đuôi
Truyền tiếng truyền lời
- "Chúng tôi xin vào ấp
Nhưng không có lưng để mặc váy
Không có bụng để mặc áo
Chúng tôi không biết ăn cơm uống
rượu
Nên không cần ruộng nương
Tháng tư cho chúng tôi được làm tổ
nơi tốt
Tháng chín, tháng mười cho chúng
tôi làm tổ ở nơi đẹp".
Lòng mụ Dạ Dần đã ưng
Chim Bịp, chim Công vào ấp
Ấp bốn tháng nghe nên biền biệt
Ấp chín tháng nghe nên mịt mù
Chim Bịp, chim Công
Vội trỏ về nhà
Mụ Dạ Dần lại đi rao:
- "Hỡi đất ma nhà trời
Hỡi chim côi chim góa
Có ai ấp trứng Pỏ
Nở trứng Chiếng
Mai sau
Muốn có quần áo ta cho quần áo
Muốn vàng bạc ta cho vàng bạc
Muốn ruộng sâu ta cho ruộng sâu
Muốn ruộng mùa ta cho ruộng mùa
Khi đó lại có chim Chiền Chiện
Bay qua nhà mụ Dạ Dần
Lên tiếng:
Chúng tôi xin vào ấp
Nhưng có lưng đâu mà mặc quần
Có bụng đâu mà mặc áo
Chúng tôi không biết ăn cơm uống
rượu
Nên chăng lấy ruộng nương
Chúng tôi xin làm tổ nơi hay nơi
đẹp"
Lòng mụ Dạ Dần đã ưng
Chim Chiền Chiện hối hả bay vào ấp
Những buổi sáng
Con mái lấy cánh che mặt trời
Buổi chiều
Con trống lấy cánh bạc che mặt trời
Con mái lấy hòn đá đập giả
Con trống lấy ngọn lá đập hồ hờ
Bỗng thấy nứt trứng Pỏ
Nở trứng Chiếng
Nghe ồn ào tiếng Lào
Nghe lao xao tiếng Kinh
Nghe ình ình tiếng Mường
Nghe xôn xao tiếng Thái
Nghe hối hả tiếng Mán
Nghe nháo nhác tiếng Mẹo
Nghe léo xéo inh inh
Nghe tiếng nói tiếng cười
Trứng một - nở ra ông Dịt Dàng
Trứng hai - nở ra ông Lang Tà Cái
Trứng ba - nở ra lang Cun Cần
Trứng bốn - nở ra Bố Bướm Khang
Trứng năm - nở ra Xang Xí
Trứng sáu - nở nàng Vạ Hai Kịp
Trứng bảy - nở ra nàng Cằm
Trứng tám – nở ra cả chu chương
mường nước
Trứng chín - nở dưa bạc tạng dứa
lồi mắt
Trứng mười – nở ra con côi bà góa
Trứng mười một - nở đứa què hay
trèo cây cọ
Trứng mười hai - nở đứa chột đứa
đui
Như vậy:
Người "Trần gian" ai
cũng sinh ra từ hang Trống
Lấy tiếng từ hang Hao
Hãy nghe tiếp chuyện sau
Hãy nhớ câu đàng trước
Truyền đi cho được
Cả mường cả nước đừng quên
Để nghe chuyện chia năm, chia tháng".
* * *
VII
CHIA NĂM CHIA THÁNG
Dưới đã có đất
Trên đã có trời
Đã có chu chương mường nước
Nhưng chưa có ngày có tháng
Chưa biết đưa ngày nào ra trước
Rước ngày nào ra sau
* * *
Thuở ấy,
Có ông Cuông Minh Vàng Rậm
Có nàng Ả Sấm trời
Đã đi khai mỏ đồng
Đúc làm mặt trăng
Đã ra khai mỏ vàng
Đúc làm mặt trời
Đúc được chín mặt trời
Đúc được mười mặt trăng
Nắng gay nắng gắt
Làm rẫy chẳng nên ngô
Trên nguồn không có nước
Làm nương không nên lúa
Để có gạo ăn
Để có nước uống
Để có ruộng làm
Để có sân mà chơi
Ta phải bắn bớt mặt trời
Mới yên mường mà ở
* * *
Đồn rằng:
Lúc ấy họ nhà Ngao
Ông thần Nỏ Ná
Sắm tên bương già, ba năm xông khói
Chín mặt trời bắn rơi đi tám
Mười hai mặt trăng bắn đi mười một
Ai không biết đêm thì tìm mặt trăng
Ai không biết ngày thì theo mặt trời
Từ đó
Ban ngày có mặt trời
Ban đêm có mặt trăng
Nhưng chưa có năm có tháng
"Ai kêu được trời đem sáng
Muốn bạc muốn vàng
Muốn chín trâu mười bò
Muốn gì mường cho cái đó"
Có con gà thưa rằng:
- "Tôi không lấy bạc lấy vàng
Không ruộng dọc ruộng ngang
Nên không lấy trâu, bò mộng"
Có con vịt thưa rằng:
- "Từ nay về sau
Trứng chúng tôi đẻ gà phải ấp
Con chúng tôi nở, người phải chăm"
Lòng ông Pồng Pêu đã ưng
Gà nhảy lên lưng vịt
Bơi trên sông trên hồ
Nó gáy một tiếng đằng Đông
Gáy vồng sang phía Tây
Mặt trời nghe gà kêu
Nên rải nắng vàng
Mặt trăng nghe tiếng vịt
Mặt trăng đã mọc lên
Từ đó có trời đêm, trời sáng
Nhưng chưa có tháng có năm
Đồn rằng:
Mường lớn nhất có ông Thu Tha
Mường lớn nhì có bà Thu Thiên
Đứng ra truyền làm năm làm tháng
Đặt ra rằng:
Một năm có 12 tháng
Một tháng có 30 ngày
Có năm đầy năm vơi
Có tháng no tháng thiếu
Lấy tháng đủ trước là tháng giêng
Gọi là tháng đầu năm
Cho tằm lên leo lá
Đặt ra tháng hai, tháng ba
Cho cá lên đồng
Đặt ra tháng tư
Cho cá biển phơi lưng
Đặt ra tháng năm, tháng sáu
Cho vua Nước lên nuôi binh, nuôi mường
Đặt ra tháng bảy, tháng tám
Cho trời làm mưa làm gió
Đặt ra tháng chín, tháng mười
Cho sai bông cơm trái lúa
Đặt ra tháng mười một, mười hai
Cho ông Táo cưỡi mây lên thượng giới
Chuyện chưa hết lối
Nói chưa hết lời
Chuyện ta hãy còn dài
Ngồi lại mà lắng
Đứng lại mà nghe
* * *
VIII
DỊT DÀNG
Dưới đã có đất
Trên đã có trời
Mọi người muôn ông Dịt Dàng ra cầm binh
Thì mường Nước mới sang
Năm mới giàu mới có
Ông Dịt Dàng gọi đứa con trong cửa
Gọi đứa ở trong nhà
Lấy chiếu trải ra
Lấy trầu lấy cau đãi bạn
Lúc này Dịt Dàng cất giọng
Gọi vọng ra mọi người:
- "Mường ơi mường à!
Hôm nay ngày nắng tỏ
Xanh cây xanh cỏ
Mường Nước đến đây có việc gì
Hay đến gọi tôi đi săn nai
Hay đến gọi tôi đi săn hoẵng"
Mọi người thưa:
- "Không, không Dịt Dàng à!
Dạ ông Dịt Dàng ơi!
Chúng tôi không gọi ông đi săn nai
Chúng tôi không mời ông đi săn hoẵng
Chúng tôi thấy
Từ thuở có trời
Từ ngày có đất
Có người ăn người ở
Chúng tôi muôn cả ông ra cầm mường
Để mường Nước được yên
Để dân giàu dân có"
Dịt Dàng nói rằng:
- "Mường Nước à
Tôi ra cầm binh còn sợ ma
Tôi ra giữa mường còn sợ thuồng
luồng
Dân mường phải nướng mười con thịt
Để cúng ma ấm
Phải nộp chín gánh vàng
Phải cúng vua Đất, vua Trời
* * *
Trời nắng
Dân mường dọn cây
Để vua có lối
Trời mưa
Dân mường hạ cành hạ cối
Để vua có cần
Kẻ đón đằng trước, người rước đằng
sau
Dịt Dàng bước xuống bậc thang đầu
Mọi người xì xào bàn tán
Dịt Dàng đi ra sân
Ai cũng rõ cũng tường
Dịt Dàng đi ra đường
Gió ào ào, ạt ạt
Lá quất cành cong
Dịt Dàng bị ma ếm đón đường
Ma ếm thè chín mươi chín lưỡi đỏ
Ma ếm giơ chín mươi chín răng cọp
Liếm mặt Dịt Dàng
Lại rồng xông tới nhe nanh
Lại thuồng luồng mào xanh nhe nọc
Lúc đó Dịt Dàng đành quay chân về
Bởi đi chẳng nổi
Dịt Dàng đành bảo rằng:
- "Xin dân mường cho tôi được
trở lại nhà
Tôi chẳng dám đi ra
Chẳng dám cầm binh cầm mường
Bởi đàn ma đã ngăn đường
Bởi rồng vàng ngăn ngõ"
Nghe xong
Dân mường đưa Dịt Dàng về nhà
Lại vào xin Lang Tà Cái
Xin Lang Tà Cái ra cầm binh cho
sang
Ra làm lang cho dân mường giàu
có.
* * *
IX
LANG TÀ CÁI
Dưới đã có đất
Trên đã có trời
Đã có người chọn nơi để ở
Nhưng Mường Nước phải giàu phải
có
Dân mường muốn Lang Tà Cái ra cầm
binh
Rạng ngày
Người ta kêu nhau ầm ầm
Đi chật một bên mường
Vòng sang núi con núi cái
Tiếng cười vang đồi bãi
Họ kéo nhau đến nhà Lang Tà Cái
Lang Tà Cái rằng:
- "Mường ơi, hôm nay ngày nắng
đẹp
Dân mường gọi tôi đi săn hoẵng
hay săn nai"
Mường Nước liền thưa:
- "Lang Tà Cái
Không gọi ông đi săn hoẵng săn
nai
Mà chu chương chúng tôi
Thấy từ thuở đã có trời
Dưới đất có lắm người tìm ăn tìm ở
Muốn cử ông ra cầm mường
Để mường nước được yên được ấm"
Lang Tà Cái rằng:
- "Tôi ra cầm binh sợ con ma
Tôi ra cầm mường sợ con rồng, sợ
thuồng luồng
Chu chương phải thịt mười con thú
lớn
Để cúng ma ếm
Phải chín gánh vàng, mười gánh bạc
Để cúng vua Đất, vua Trời"
Trời sáng
Chu chương dọn cây
Để Lang Tà Cái có lối
Trời mưa
Mường nước hạ cây hạ cối
Lang Tà Cái có cần đi lại
Lang Tà Cái đi vội
Rồng cuốn tới nhe nanh
Thuồng luồng xanh nhe nọc
Lang Tà Cái đành trở về
Đi chẳng nổi
Để ra giữ mường giữ nước
Lang Tà Cái đành bảo:
- "Xin chu chương mường nước
Cho tôi được trở lại nhà
Tôi chẳng dám ra cầm binh cầm mường
Bởi ma chắn đường
Thuồng luồng, rồng xanh chắn
ngõ"
Đưa Lang Tà Cái về đến nhà đến cửa
Chu chương mường nước trở ra
Lại vào nhà Lang Cun cần
Mòi Lang Cun cần ra giữ mường giữ
nước.
* * *
X
LANG CUN CẦN
Rạng sáng
Người kêu nhau ầm ầm
Đi đến nhà Lang Cun Cần
Lang Cun cần
Gọi lính vác chiếu ra trải
Lấy trầu lấy cau ra mời
Lang Cun cần thay quần bảy gang
Mang áo chín sải
Dắt múi khăn như đầu rái
Thắt dây lưng tám sải màu đen
Đứng dậy rõ tướng con thú dữ
Nói oang như sấm
Nhưng nhắm mắt lại
Lang Cun cần hiền hiền
Mở mắt ra
Lang Cun cần cũng lành lành
Lang Cun cần hỏi:
- "Mường ơi, mường à!
Hôm nay ngày tốt gió
Nước trong, nước đỏ, rừng yên
Mường nước gọi tôi đi săn
Hay đi quăng chài thả lưới"
Mường nước nói:
- "Không, không, Lang Cun Cần
à!
Dạ, dạ, Lang Cun cần ơi
Dân mường không gọi ông đi săn
Không gọi ông đi quăng chài thả
lưới
Chúng tôi thấy,
Từ năm có trời
Dưới đất có người tìm ăn tìm ở
Đã cử Dịt Dàng, Lang Tà Cái
Cầm binh cho sang
Cầm mường cho yên cho ấm
Nhưng hai ông ra đến đầu mường
Bị ma ếm
Đành quay về nhà
Bây giờ Lang Cun Cần đừng chê rằng khó
Mường nước muốn rước Lang ra cầm mường"
Lang Cun Cần rằng:
- "Nghe chu chương nói
Tôi rối trong thân
Lo xa lo gần trong dạ
Sức bằng quả sung quả vả
Tài lại nhỏ như hột muồng muồng
Vâng, tôi sẽ đi ra cầm binh giữ mường
Nhưng còn sợ ma ếm
Để đuổi ma ra khỏi mường khỏi ngõ"
Trời nắng
Để Lang Cun cần có lối
Trời tối
Mường nước dọn cối dọn cành
Cho Lang Cun Cần ra đường
Kẻ đón trước, người rước sau
Ma chạy từng bầy trốn vào trong
núi
Ma rồng sợ Lang Cun cần trói
Thuồng luồng sợ Lang Cun cần đánh
* * *
Từ nay, đã có Lang Cun Cần
Cầm binh, binh sẽ sang
Cầm mường, mường sẽ giàu có
Có người, chưa có của
Có người, phải có nhà
Nghe chuyện sau, làm nhà Lang cho
trọn
* * *
XI
LÀM NHÀ LANG CUN CẦN
Lang Cun Cần chưa có cửa mà vào
mà ra
Chưa có nhà mà ăn mà ngủ
Còn phải lấy rừng làm nhà
Thuở ấy có một người đi săn
Đi vào giữ rừng dang
Thấy con rùa đen
Nằm trong gầm núi đá
Một bận lật mai rùa để ngửa
Chẻ lạt nứa buộc ngang
Chẻ lạt dang buộc dọc
Trói vào cọc
Néo cổ néo chân
Quấn dây quanh thân
Người đi săn vững dạ hả lòng
Mới chặt cây song làm đòn khiêng
đòn gánh
Người đi săn thấy trong lòng vui
lắm:
- "Rùa ơi!
Tao trói mi vào đòn
Đem về róc thịt vào nồi con nấu dấm
Bỏ thịt vào ấm lớn tao rang
Nấu với rau răm
Băm với riềng ớt
Tao vừa ăn cái, vừa húp nước canh
rùa"
Rùa thưa:
"Đừng trói tôi làm chi chết
oan
Thịt tôi chẳng đầy một ống bương
Xương tôi chẳng đầy một ống nứa
Gan tôi không no con nít
Tôi biết kiểu làm nhà
Xin ông thả tôi ra
Tôi bày cho kiểu dựng"
Người đi săn nghe thương
Tháo dây đầu dây gót
Cởi nút buộc ngang cổ
Mở lạt buộc ngang hầu
Rùa ngẩng đầu lên thưa:
- "Bốn chân tôi làm nên cột cái
Nhìn sườn dài, sườn cụt mà xếp làm rui
Nhìn qua đuôi làm trái
Nhìn lại mặt làm cửa thang cửa sổ
Nhìn vào xương sống làm đòn nóc dài dài
Muốn làm mái thì trông vào mai
Vào rừng mà lấy tranh, lấy nứa mà làm vách
Lấy chạc vớt mà buộc kèo
* * *
Người đi săn nửa đêm bước đến đất Cun Bướm Bờ
Sáng nhờ nhờ đến đất Cun Bướm Bạc
Đi hết sáng về chiều
Đến hang chim Tùng, chim Tót
Tối sâm sẩm tới đất mường Bằng
Sáng giăng giăng đến đất Đồng Chì Tam Quan Kẻ Chợ
Sáng ra vào hầu Lang Cun cần
Kể lại chuyện con rùa
Lang Cun Cần nghe reo trong dạ
Nghe hả trong lòng
Cho người nhà đi rao
Gọi dân mường
Trong ngày một phải qua
Ngày hai ngày ba phải đến
Dựng nhà cho Lang Cun Cần có nơi ăn chốn ở
* * *
Cửa trời sáng sáng
Bụng trời rạng rạng
Mường gần kéo qua
Mường xa kéo đến
Làm nhà cho Lang Cun Cần
Lang Cun cần có nơi ăn chốn ở
Mường lớn, mường nhỏ
Đã làm được cửa được nhà
Cửa nhìn qua ngó lại
Nhà hai trái mười hai ngăn
Ba mươi sáu cái cửa sổ
Nay
Lang Cun Cần làm Cun đã sang
Làm Lang đã giàu, đã có
Đời đó đã vang
Đoạn kế đã qua
Ta kể sang đoạn khác
* * *
XII
TÌM LỬA TÌM NƯỚC
Lang Cun cần đã có nhà mà ở
Nhưng chưa có lửa để đúc bạc
Chưa có nước để rửa nhà
Nuốt thuốc, thuốc không vào
Ăn rau còn đau bụng
Lang Cun cần giao cho Viếng Cu Linh[32]
Một mình đi xin lửa
Phải đi mấy ngày mấy bữa
Đem cho được lửa về
Mang cho được lửa về
Viếng Cu Linh ra đi
Đi xin nước xin lửa
Bước tới lật đật
Bước đi vội vàng
Đầu hôm đến mặt trăng
Sáng ra đến mặt trời
Rẽ vào chơi nhà Tà Cắm Cọt
Tà Cắm Cọt thăm hỏi:
- "Mỏi chân nên cháu phải vào nhà
Hay có việc gì đến hỏi"
Viếng Cu Linh thưa rằng:
- "Tà Cắm Cọt à
Tôi đến nhà sớm sớm
Vì Lang Cun Cần chưa có lửa đúc bạc
Lang Cun Cần chưa có nước rửa nhà
Tôi đi xin nước xin lửa"
Tà Cắm Cọt đã ưng
Liền gọi lũ em lấy con dao cán ngà
Lên đồi Ca Da
Chặt lấy năm cành cây năng
Chẻ lấy bảy mảnh lạt dang
Chẻ nứa vàng, nứa già làm bùi nhùi
Kéo lạt dang đi đi lại lại
Lửa bén bùi nhùi
Mang về trăm bó lửa
Chia một nửa cho Viếng Cu Linh
Tà Cắm Cọt nhốt Viếng Cu Linh vào mặt trống
Hỏi rằng:
- "Mày thấy tối hay thấy sáng"
Viếng Cu Linh trả lời:
- "Tôi thấy tối như đêm như ống"
Lúc ấy,
Tà Cắm Cọt mới cho làm lửa
Lấy chín lá dong lành
Đùm tám gói lửa đỏ dưới
Gói chín gói nước để trên
Lửa gói đã được
Nước đùm đã nên
Tà Cắm Cọt mới cho
* * *
Viếng Cu Linh ra khỏi mặt trống
Cầm lấy tám gói lửa
Đỡ lấy chín gói nước
Thưa rằng:
- "Xin chào Tà Cắm Cọt tốt bụng
Chăm việc chăm làm
Tôi xin trở về Đồng Chì Tam Quan Kẻ Chợ"
Tà Cắm Cọt ra tiễn
Cả mường nước mường lửa ra đưa
* * *
Viếng Cu Linh xuống thang lửa quanh co
Về theo mặt trời
Đi theo mặt trăng
Vỡ chín đùm nước ở trên
Tưới lên tám gói lửa ở dưới
Khói tắt đằng khói
Nước trôi lại đằng đồng
Viếng Cu Linh về không
Lưng đã mỏi
Gối đau nhừ
Vai gánh lửa, lửa đã nguội
Mang hai tay về không
Về Đồng Chì Tam Quan Kẻ Chợ
Nửa đêm
Viếng Cu Linh vào hầu Lang Cun Cần
Quỳ gối để van
Co chân xin tội
Lang Cun Cần nổi cơn dữ
Cử cơn hờn
Lấy chân phải đạp lại
Chân trái đạp đạp qua
Đạp Viếng Cu Linh ở giữa nhà
Đạp văng ra cửa sổ
Mở tiếng mắng tiếng chửi
Dồn tiếng thối tiếng cay:
- "Mày phải lấy phân con lợn làm nhà
Đội phân con gà làm cửa"
Miệng Viếng Cu Linh đã thưa
* * *
Lang Cun Cần lại hội chu chương mường nước
Hôm trước, con nít bàn qua
Hôm sau, ông già bàn đi bàn lại
Bây giờ phải cử anh chàng Tun Mun[33]
Đi xin lửa về cho Lang Cun Cần
đúc bạc
Đi xin nước về cho ông Lang Cun Cần
lau dọn sàn nhà
Anh chàng Tun Mun
Đòi ăn cơm giữa cửa sổ
Đòi uống rượu giữa sàn
Mới chịu đi xin lửa mang về cho
Lang
Tun Mun bảo rằng:
- "Chúng tôi đi lấy lửa lấy
nước mang về
Ngày trước chẳng nói làm gì
Nhưng từ nay về sau
Mường phải cho chúng tôi cắn người
nằm trong rừng
Cắn trâu bò ngủ trong núi
Miệng Lang Cun cần đã thưa
Lòng Lang Cun Cần đã chịu
Tun Mun đến nhà Tà Cắm Cọt
Tà Cắm Cọt bước ra thăm hỏi:
- "Chàng Tun Mun ơi!
Tun Mun mỏi chân vào nghỉ
Hay có việc gì?"
Tun Mun gãi đầu gãi tai
Thở dài, thưa rằng:
- "Chúng tôi không phải mỏi
chân xin nghỉ
Mà có việc cần việc nóng
Tà Cắm Cọt ơi!
Lang Cun Cần nhà chúng tôi
Đã có cửa có nhà
Mà chưa có nước có lửa
Lang sai chúng tôi đi xin lửa xin
nước"
Tà Cắm Cọt hỏi rằng:
- "Hôm trước ta đã cho Viếng
Cu Linh
Chín gói nước, tám gói lửa
Sao Tun Mun lại còn xin"
Chàng Tun Mun nói một lời
Xin thêm một lẽ:
"Của chẳng ăn chẳng để
Viếng Cu Linh gánh khỏe gánh tài
Nhưng đến núi Lèn En
Gói lửa va vào núi
Gói nước tưới lên trên
Lửa tắt im im
Lửa chìm, nước chạy.
* * *
Tà Cắm Cọt lại sai người đi lấy lửa
Đem về chia cho Tun Mun
Tà Cắm Cọt lại cho Tun Mun
Chui vào trong bụng trống
Lắc lắc hồi lâu rồi hỏi:
- "Chúng mày thấy tối hay thấy sáng"
Chàng Tun Mun nói cứng
Đứng dậy vỗ mặt trống nói bừa:
- "Tôi thấy sáng lòa, sáng lắm
Sáng chói, sáng choang
Thấy cả đất Đồng Chì Tam Quan Kẻ Chợ"
Tà Cắm Cọt sợ lộ cách làm lửa
Vội nhốt Tun Mun vào giỏ
Bỏ lên gác bếp
Lại hỏi Tun Mun:
- "Chúng bay thấy tối hay thấy sáng?"
Tun Mun trả lời:
- "Bây giờ nhìn xung quanh tối tối
Ngó lại thấy đen đen"
Nhưng anh chàng Tun Mun
Có mắt ở đỉnh đầu
Nhìn thấu qua gió
Ngó lọt qua nan
* * *
Thấy Tà Cắm Cọt kéo lửa
Bằng bùi nhùi dang
Kéo đi giằng lại
Tun Mun thấy lửa bén nùn
Khói ùn ùn bốc lên
Thấy Tà cắm Cọt ra suối
Lấy nước mang về đong vào ống
Tun Mun nhớ trong bụng
Giữ trong lòng
Cách lấy nước trong
Mẹo kéo ra lửa
* * *
Lang Cun Cần nghe bọn Tun Mun nói
Vội cho người đi sắm bùi nhùi, nứa
già
Chở vội về nhà Lang để quấn dây
ngang ống nứa
Sai đứa ở kéo lửa
Càng kéo càng hăng
Khói bay ra ùn ùn
Lửa đùn ra đỏ đỏ
Lúc đó, nhà Lang đã có lửa
Còn phải sai người đi cõng nước
dưới bể
Đi bế nước ngoài sông
Đào mạch trong đất
Lật mỏ trong suối
* * *
Nước đã vào ống nứa
Lửa đã sáng trong nhà
Ăn cá không còn sợ tanh
Ăn rau không còn đau bụng
* Biên tập Huỳnh Tâm.
* Nguyễn Văn
An
[1] Con chạng kha: con gọng vó, loài côn trùng sống trong nước.
[2] Đồi
[11] Nay thuộc Thanh Hóa.
[12] Nay thuộc Thanh Hóa
[13] Nay thuộc Thanh Hóa.
[14] Nay thuộc Thanh Hóa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét