SỬ THI ĐẺ ĐẤT ĐẺ NƯỚC DÂN TỘC MƯỜNG [8] * Biên tập Huỳnh Tâm & Nguyễn Văn An.

XXIII
SĂN CÁ ĐIÊN SĂN QUẠ ĐIÊN
 
Ở bãi làm thịt con moong lồ
Còn rớt thừa hai, ba tảng phổi
Đàn chó săn ăn phải
Hóa ra chó điên
Đuổi cắn người chu chương mường nước
Ai thấy cũng sợ
Nghe chó sủa đã gờm
Mọi người lại phải đi giết chó điên
Quẳng xác xuống sông, xuống suối
Xác chó bồng bềnh trôi dạt
Cá nuốt vào một bữa
Cá mửa ra một ngày
Cá quay quay, hóa thành cá dại
Cá dại ở đầu sông Ải[57]
Cá dại ở dải sông Âm[58]
Hôm ấy,
Cun Khương đi quăng chài
Cun Tàng đi thả lưới
Gặp đàn cá mương xúm lại
Gặp đàn cá mái kéo vào
Đông hơn đàn kiến
Kín cả mặt sông
Con cắn vào lưng
Con xông vào bụng
Con đè lưng mà đớp
Con đè khớp mà nhai
Con đè tay mà cắn
Con tìm trán mà đâm
Con tìm cằm mà đáp
Con sáp lại đằng sau
Con bâu đầy trước ngực
Con dứt dái tai
Con nhai mí mắt
Con cắn sống mũi
Con dụi cánh tay
Cun Khương tối mặt tối mày
Cun Tàng sứt tai chảy máu
Tìm con dao sáu, dao chẳng đem đi
Tìm dao nắm chì, không mang đi nốt
Nhớ cây gươm tốt, gươm để ở nhà
Tìm nỏ xen ba, nỏ ta đâu mất
Cun Khương phát khóc
Cun Tàng kêu trời
- "Ới chu chương
Cứu anh em tôi với!"
Mường Rậm kéo đi rầm rập
Mường Rộc kéo đến ào ào
Tay kiếm, tay dao
Xuống sông chém cá dại
Người thì chém dọc
Kẻ thì phạt ngang
Bầy cá mương dạt sang bên trái
Đàn cá mái kéo về đằng sau
Tướng cá Ngạo định lặn xuống vực sâu
Nhưng đã bị dân mường chặt cổ
Kéo xác lên bờ
Phơi khô dưới nắng
Hôm nay tốt nắng
Bầy quạ khát nước tìm sông
Khô áo, khô lông
Muốn tìm nước tắm
Con quạ nghe mùi nằng nặng
Con quạ ngửi mùi hôi hôi
Nên bay đến tận nơi
Để tìm mồi, tìm miếng
Cánh con quạ liệng
Miệng con quạ kêu
Cả đàn về theo
Cả bầy kéo đến
Thấy cá chết trương
Bụng như trống cái
Cả đàn kéo lại
Rỉa bụng, rỉa đầu
Bầy quạ ăn no
Xuống sông uống nước
Con bay lên trước
Con bay nối đuôi
Nghe nhức trong đầu
Nghe đau trong bụng
Nó bay về
Đậu nóc nhà quan
Lang Cun Khương váng óc
Cun Tồi, Cun Tàng đau đầu
Sai con ở con hầu
Ra đuổi bầy quạ dữ
Đuổi từ cành rũ
Quạ sang cành cao
Đuổi từ cành xoan
Quạ sang cành gỗ
Đuổi từ cành đỗ
Quạ sang cành na
Quạ lên mái nhà
Quạ kêu: "Quạ quạ"...
Cun Khương nghe tức
Nhằm con quạ khoang
Rút tên ra bắn
Tên bay mau mau
Cắm vào trước ngực
Quạ khoang cúi gục
Đôi cánh xõa như áo tơi
Cả bầy quạ kéo đến
Con dang cánh đỡ đằng đầu
Con lấy mỏ cắn lông đuôi
Con bay bên dưới
Còn lượn bên trên
Đưa con quạ tướng, khoang ngực
Đưa con quạ tướng, khoang đầu
Bay qua sông sâu
Bay vào rừng rậm.
 

*   *   *
XXIV
GIẶC MA RUỘNG
 
Toóng Ín chết biến nên cây cỏ
Được làm ma giữ đồng
Buổi sớm
Chàng giận Lang Cun Khương
Buổi chiều
Chàng giận Cun Tồi, Cun Tàng Rằng:
Nói tiếng không giữ tiếng
Ăn lời chẳng giữ lời
Bảo: đẻ Toóng Ín chết một nơi
Cho ngồi giữ phần ruộng
Làm ma thiêng cho mưa kéo xuống
Làm ma ruộng để ăn cơm mới tháng mười
Bây giờ đã chín lần cơm ruộng
Đã bảy lần cơm nương
Không thấy nhà Lang cúng kiếng
Cun Khương không màng
Cun Tàng không cúng
Cun Tồi không khói xuống
Làng nước không khói hương
Toóng Ín tủi hờn
Mặt đỏ hăng hăng
Chân đi dữ dữ
Đội mũ bảy mào
Vác dao chín lưỡi
Đi chặt xác con Cun Tồi, Cun Tàng
Đi xé lòng Lang Cun Khương
Toóng Ín xăm xăm bước vào đồi bái
Hối hối bước về đồi nhà
Gọi ba hồn Cun Tồi
Gọi bảy vía Cun Tàng
Vía ở đâu ra chịu ăn roi giang
Chịu mang hèo tre, hèo hóp
Chịu đáng mười chín roi mây
Rồi Toóng Ín ngồi trên ngọn cây tre sau nhà
Chân gác lên cây đa sau cửa
Lính đầu đen vây kín cầu thang
Hễ Cun ra
Là cho lính đánh
Lính Toóng Ín kéo đặc như cỏ
Cản gió đùng đùng
Nhằm ngõ nhà lang mà đi, mà đến.
*   *   *
Có đứa lính cai cả
Có đứa ở cai hầu
Đứng ở chân cầu
Nó nghe tiếng hú
Nghe tiếng ồn ồn
Nghe ma reo dữ dữ
Ngó thấy ma lố nhố
Súng ná nghênh ngang
Bỏ chạy vội về dinh Cun Tàng
Sang nhà Cun Khương, Cun Tồi
Cun Tồi hỏi:
- "Mày gặp cáo, đụng hùm
Hay no cơm say rượu
Sao phải chạy lăng xăng?"
Cun Khương nói:
- "Mày bị ong khoái, ong bò đuổi đốt
Trông mặt mày hoảng hốt mà ghê?"
Cun Tàng lại hỏi:
"Mày bị ai chửi, ai chê
Mày bị ai đe, ai dọa
Mà mắt trắng dại dại
Mà má trắng bời bời?"
Lúc ấy,
Đứa lính cai cả
Đứa ở cai hầu
Chắp tay, vội tâu
Kể từng sự việc
Nghe xong, Cun Tàng hỏi:
- "Có giặc mường trên kéo đến
Hay mường dưới kéo về?"
Cun Tồi hỏi:
- "Giặc nào thì giặc
Cứ ra ngó xem
Lấy binh ra che, ra đỡ
Ta chẳng phải đất khó
Ta không phải làng nghèo
Mà phải thua, phải thiệt"
Lúc ấy
Chớp giật nên lũ
Sét phá nên mưa
Người đi ra phải khóc
Cây mốc bị giập
Gà ấp phải sương
Nai đi bỏ đường ăn lá
Rái cá theo hầu
Con bò, con trâu không chịu thở
Cây cỏ chẳng làm cành
Cái nồi, cái xanh không làm quai
Lang Cun Khương đoán biết:
- "Chẳng phải ma gì
Không phải ma ngoài giặc lạ
Chính là Toóng Ín làm giặc
Nó làm giận làm dữ
Nó đánh trả đánh trêu
Ới binh mường!
Hãy mau mau dẹp yên
Chặn quân trên rừng tràn xuống
Đánh tan giặc ma ruộng tràn về
Lúc ấy
Toóng Ín cho tướng rắn đi theo
Tướng rắn chạy về vội bảo:
- "Ông ơi, ông à
Nhà Lang Cun bày rượu
Nhà quan mặc quần áo vội vàng
Binh mường đến ùn ùn
Dân mường đến lũ lũ"
Lập tức
Toóng Ín thúc quân ma đi vội
Hội ma binh mau mau
Cắt cử:
Lũ ma đỏ ăn sáng
Đi đánh phía mặt trời mọc
Lũ ma có nọc ăn trưa
Đi đánh phía mặt trời lặn
Ma rắn đánh vào phía ngoài cửa
Ma lửa đánh vào phía rừng
Ma mỏ vàng đánh vào sân
Ma tám chân trèo lên đánh nóc
Từ cửa đánh vào
Chặt đầu chém cổ
Đứa ở mặc đứa ở
Kẻ hầu mặc kẻ hầu
Đụng đứa nào, chặt đầu đứa ấy
Để nhà lang biết thân
Lo nuôi thân, giữ mường nên yên ấm
Khi ấy
Bên nhà lang
Quân Cun Khương kéo đi ra rả
Cắt Cun Tồi giữ vườn
Cắt Cun Tàng giữ chặng
Đến đêm đụng lính Toóng Ín giữa ruộng
Rạng ngày mới đánh nhau
Rừng cây đổ ào ào
Khói đen cuộn cao, cuộn thấp
Toóng Ín đuổi Lang Cun Khương
Ra giữa rừng cây sến
Đến bến sông Rồng
Lang Cun Khương quay lưng đánh trả
Toóng Ín dập dồn trăm roi
Cun Khương đánh dài trăm giáo
Toóng Ín toạc quần rách áo
Chân vấp cây ngã dồn
Lang Cun Khương bị rắn quấn chân
Múa giáo đâm ngang, đâm dọc
Thọc giáo, vừa gạt, vừa phang
Toóng Ín bỗng lăn quàng xuống nước
Lang Cun Khương muốn đuổi muốn vượt
Đứa hầu bảo: "Rượt chẳng nên
Để Toóng Ín được sống
Nó bỏ kiếm làm mà giữ ruộng
Đã lặn xuống với vua Long Vương"
Lang Cun Khương đưa binh về mường
Cun Tồi, Cun Tàng ra chào, ra đón
*   *   *
Hãy nghe chuyện Toóng Ín đi xuống
Ở mường Thủy phủ Long Vương 
XXV
GIẶC MA MAY, GIẶC MA LANG
 
Toóng Ín thua trận
Đành bỏ ruộng đồng
Xuống tới Long Vương
Kêu xin vua Nước
Vua Nước bèn cho Toóng Ín
Làm ma may - cướp đường
Làm ma lang - giữ sông giữ bến
Lên đồng ăn cơm mới tháng chín
Về bến, uống rượu tháng năm
Lũ ầm ầm đi chơi, đi dạo
Ngày lạnh, tháng ráo
Đi bắt con gái mãi chơi
Đi bắt con trai mãi nhởi
Đưa về dinh về trại
Làm lính cho quan Ba Ba
Bắt con nít làm đứa coi nhà
Bắt ông già về làm Uông, làm chặng[59].
*   *   *
Toóng Ín được mặc áo mặc quần
Quần rộng vằn lưng cá chép
Áo đẹp tựa vây cá mè
Đầu rõ đầu cá trê
Mắt lè lè cá ngào
Ma may cử Toóng Ín làm thầy
Thầy dẫn lính ma may ngược bến
Thầy dẫn lính lên bờ
Toóng Ín có mào đỏ to to
Co ro lưng rồng uốn éo
Đứng trông lên nẻo ruộng
Lại nhớ thù Cun Cần
Toóng Ín sai cá ngào chín vây
Bơi theo suối dò đường dò lối
Sai tướng Ba Ba
Lặn xuống Thủy phủ Long Vương
Xin vua nước hãy thương
Cho đánh Lang Cun Khương
Cá ngào đi dò đi xét
Bị lính Cun Khương tóm được
Bị mắc lưng vào chài bảy thước chín gang
Cá ngào gọi oai oái
Tướng Ba Ba ngoi vội lên
Thấy người ta kéo chài giật giật
Lật lưới ào ào
Tướng Ba Ba bổ nhào
Lao về tin cùng Toóng Ín
Rằng:
- "Cá ngào bị bắt lôi lên
Cá phải chịu đồng
Sông đành chịu cạn
Cá ngào mắc nạn
Xin tướng cắt quân
Đánh vào dinh vào cửa
Có lệnh Long Vương thủy phủ
Chớ đánh nhau lâu
Mà hại chu chương mường nước".
Toóng Ín đã được tiếng
Vua bạc đầu đã mở miệng mở lời
Ban sớm dâng nước lên chân đồi
Ban chiều dâng nước lên ăn giếng
Bắt lấy con chiền chiện
Hỏi chuyện nhà Cun Lang
Chiền chiện bảo rằng:
- "Lang Cun Khương đang đánh trống
Làm gạo, làm cơm
Đơm đăng đầu sông
Đơm đó đầu nguồn
Bắt lươn, bắt chạch
Cúng ma nhà cho sang
Cúng ma làng cho yên
Nhưng không cứng ma giữ đầm
Không có cỗ cúng thần giữ ruộng
Ma may, ma lang không được chuộng"
Được lời chiền chiện
Toóng Ín chọn tháng chọn ngày
Lên ngả đồng, ngả sông đóng trại
Toóng Ín chờ tướng Ba Ba
Ngược đồi bái đóng dinh
Đúng ngày lành tháng bảy
Gọi nước, đánh Cun Khương
Đánh Dịt Dàng, Cun Tồi
Phá nơi ăn, ngăn nơi ở
Phá đụn lúa, nương khoai
Lúc ấy Dịt Dàng bận đi săn
Cá ngào kéo nước lên quấy
Cun Tồi, Cun Tàng lẩy bẩy
Đành chịu chết oan
Chịu để ma may, ma lang tóm lấy
Tướng Ba Ba trói lôi đi
Mũi sặc nước phò phè
Tai nghe ù ù
Cun Tàng bị giải sang cửa quan
Cun Tồi bị giải sang cửa vua
Toóng Ín đã đổi dạng
Đã thay mạng đổi hình
Mặt người, nhưng tay chân vẫn như rồng rắn
Ức trắng lang
Lưng trắng rồng
Cun Tàng không biết đó là Toóng Ín
Không biết đó là em cùng nòi
Chẳng biết đó là người cùng cha
Toóng Ín đội mũ mào đỏ đi ra
Cun Tàng ngó lại
Tóng ín sách gươm ngà đi vô
Cun Tàng ngó vô
Lâu lâu Toóng Ín mới nói:
- "Ới ới! Anh Cun Tàng
Thằng Toóng Ín này chết chương
Chết nhũn, chết xác
Để ba anh có gác tía nhà chu
Ấy thế mà ba anh lại nuốt lời
Không thèm thắp hương, cúng khói"
Cun Tàng nghe xong
Lòng bừng bừng nổi giận
- "Ma sao trói tao hờ hờ
Chẳng đưa tao ra mà giết
Toóng Ín nó sống khôn chết thiêng
Nay đang là thần giữ đồng
Đang làm lang giữ ruộng, giữ lúa
Tháng năm tao cúng cho ăn lúa trỗ
Tháng chín tháng mười tao cúng cơm trắng, cá kho
Nhà tao đâu họ với ma
Không dây dưa đến nòi rồng rắn"
Toóng Ín nghe Cun Tàng chửi mắng
Đòi tướng Ba Ba sang
Lệnh rằng:
- "Hãy gọi lính cá trê, cá bống
Mặc quần vằn xanh xám
Mặc áo xanh, vằn tím, sọc đỏ
Chong chong kéo lên bờ sông cái
Lên bãi sông con
Đánh úp nhà lang
Khi trời còn mù mù ám ám"
Chu chương mường nước
Nổi mõ gõ trông
Kéo binh đầy ruộng
Kéo người đầy sông
Tìm xác Cun Tàng
Lang Cun Khương đi đầu
Đụng phải quân nào đánh tan quân ấy
Hô quân đón đánh
Rao lính đánh dồn
Toàn quân cá ngạnh
Toàn lính cá ngào
Đứa cầm đầu có râu
Rõ là ma Long Vương thủy phủ
Lang Cun Khương hô binh đánh trả
Cá đỏ thét to:
- "Ta chẳng được ở nhà chu
Ta phải thù nhà lụi
Ta chết đi, chết lại
Để nhà Lang ăn sướng ở lành
Ta chịu làm ma giữ đồng
Làm thần giữ cơm, giữ lúa
Ăn cơm, ăn cá
Người dâng cỗ tháng năm
Thế mà riêng ta
Chẳng ai cúng tế
Nhà thờ vẹo vẹo
Lạt buộc xiêu xiêu
Lần trước ta lên theo
Nhà vua còn đánh
Đâm ta chết, hóa rồng, hóa rắn
Lần này ta làm vua
Ta là Toóng Ín nơi thủy phủ
Cho nước lên giữ nhà
Hò lính lên giữ cửa"
Liền đó
Lang Cun Khương múa gươm buộc vải đỏ
Trỏ vào con rồng xanh
Con rồng sọc vằn lưng đỏ
Vừa mới xưng là kẻ khó
Vừa kêu nói họ hàng
Bảo nó là Toóng Ín cải dạng
Rằng:
- Hỡi con ma đỏ
Này họ ma rồng
Cun Tàng mày phải tha
Còn nhà ta, đâu có quen với rồng với rắn"
Toóng Ín múa gươm chém trả
Lũ lụt ầm ầm
Gươm chặt đi, gươm phang lại
Gươm chặt trái, gươm phang phải
Toóng Ín bải hoải
Sức kiệt tuỷ xương
Liền chạy lấy mặt
Trốn thoát giữa đồng
Lang Cun Khương lao dao theo
Toóng Ín đâm nhào ra sông cái
Rồng chết lăn giữa bãi
Rồng quấy cát bay mù
Giặc ma nay đã thua
Giặc ma lang ùa về sông về bến
Để lại xác rồng vằn vện
Chết rã, thối cả mường
Có con quạ thấy thương
Tha thịt rồng về đá chùa chiền Hang Hao
Trao rồng con rồng
Đứng chầu trên nóc nhà, nóc đá[60]
Vua trời khen loài quạ
Cho quạ từ nay
Ăn lòng, ăn thịt
Ai mổ thịt giữa sông
Ai làm lòng giữa bến
Phải phơi lòng ruột
Mời quạ tới ăn
Giặc ma ruộng đã ngăn
Giặc ma may ma lang đã diệt
Nhà Lang đã mạnh
Mường nước đã sang
Cun Cần rước Dịt Dàng
Về Đồng Chì Tam Quan Kẻ Chợ 
XXVI
 
ĐƯA VUA VỂ ĐỒNG CHÌ TAM QUAN KẺ CHỢ
 
Rạng sớm
Hội chu, hội chương
Hội mường, hội nước
Chín dàn trống, chiêng đi trước
Mười phường sắc bùa đi sau
Có lính đi đầu vác gươm, vác giáo
Kẻ dẫn đầu ở mường cây gạo[61]
Người khoá đuôi ở dạp Pồng Pêu[62]
Con gái rầm rì đầu sông
Con trai đã vào núi cái
Ông già đi men bờ rẫy
Già già, men ruộng, men nương
Áo đẹp quần chùng như ong như bướm
Quạ bay qua kêu loạn
Bướm bay lại bướm kinh
Nai thấy, nai giật mình
Trút thấy, trút chui xuống lỗ
Con cua tọt vào hòn đá
Cá thấy, cá lặn xuống sông
Người mường trên kéo lại
Người mường dưới kéo lên
Nghe rằng:
- "Ai chưa có cơm thì đi giã lúa
Ai chưa cỏ cá thì tát đầm tát ao
Sáng ngày hôm sau đi đưa vua cho sớm
Xin mường cho bốn mươi trai tơ
Bốn chục trai thanh"
Mặc áo kiệu kẻ vàng
Mặc quần sang nẹp đỏ
Đội mũ mào gõ kiến
Xin mường sắm đủ trống chiêng
Giáng bảy ngày chín đêm
Xin mường lo đuốc lo đèn
Đốt lên cho lụi nắng
Xin mường cho trăm gánh cơm trắng
Xin mường cho chín gánh thịt khô
Mang đi ăn tháng, ăn ngày
Con gái mang vòng bạc đầy tay
Con trai buộc vải vào cổ tay cho hồn cứng cáp
Xin mường đi đủ già đủ trẻ
Có khỏe có gầy
Xin mường loan cho nhau hay
Bày cho nhau tường tỏ
Xin mường mang theo gươm có vỏ
Mang theo giáo có chuôi
Để răn bảo đứa nào làm giặc
Xin mường cầm theo mác
Đề phòng giặc loạn đồi Chu
Phòng giặc ở bến sông rộng
Thế rồi
Ngồi trên kiệu đòn rồng
Vua trông ra ruộng
Ngó xuống sông bến
Quay lại dòm mường
Chẳng còn thấy có giặc
Chẳng còn vấp nạn ma
Chỉ còn thấy đàn cò bay lượn
Thấy đàn bò đi ăn
Thấy con trâu giữa bãi
Thấy con gái vác nước
Thấy đàn vạc đi ăn
Thấy đàn nai chạy rong
Dịt Dàng mừng lắm lắm
Nghe tiếng gáy gà trống
Nó dạy bảo vua
Có về Đồng Chì Tam Quan Kẻ Chợ
Vẫn nhớ trở về đất tổ
Hãy nhớ nơi đất nhà
Ngày rằm đi qua
Ngày xa vắng đến
Nhớ chôn đẻ được cây si
Cây si chia mường chia nước
Nơi đẻ ra lửa
Nơi đẻ ra nhà
Nơi có cây chu đá, lá chu đồng
Bông thau, quả thiếc
Nơi có người dạy dệt
Nơi có thợ biết thêu
Thế rồi
Vua lại ngó ra bến
Nhìn lại sông
Thấy người đông ngóng đợi
Đủ mặt đứa ở, con hầu
Đủ mặt kẻ có râu, người đẹp lão
Vua liền vén tay áo
Trỏ tay dặn cụ già:
- "Các ông già ơi!
Các ông là cha, là tổ
Ông quay về cho đỡ
Ở nhà hãy lành sức, lành thân
Đừng quá chân qua núi!
Ông già cúi lặng nói:
- "Nhà vua chớ ái ngại
Lão còn đưa chân tới ngọn sông
Lão còn đi thông ngọn núi
Muốn tiễn vua đến đồi bãi
Đưa vua đến cật mường
Dẫu có mục xương cũng là hả dạ"
Liền đó
Vua lại nhìn xa nữa
Thấy còn cây mọc giăng
Lá xanh chồi
Lá mới uốn
Tay vua bẻ một ngọn
Rắc lá xuống lòng đường
Dặn chu chương làm ăn cho đủ
Từ nay về sau
Ngày này ngày đến
Đất đã nên đã tỏ
Ngõ đã nên đã thành
Người hay ăn hay làm
*   *   *
Chuyện đã nên trọn
Đẻ đất, đẻ người
Chuyện cứ nên vui
Ai còn nghe dang dở
Đã nghe rồi nghe nữa
Nghe đến mai sau
Chuyện mở đầu theo năm lành tháng tốt
*   *   *
Này đất, này mường
Này chu, này chương
Này lửa, này nước
Mặt trời đã rạng
Mặt tháng đã tường
Đã sáng chu
Đã sáng chương
Sáng mường
Sáng nước.
*   *   *
Lời Kết:
Sử thi "Đẻ Đất, Đẻ Nước" tổng cộng 26 bài. Một tác phẩm triết học dân gian, cực kỳ bí ẩn, lúc xa xưa ấy, tư duy con người về vũ trụ nhân sinh trùng hợp với tư duy thời hiện đại thế kỷ 21. Hoá ra ông cha ta sống hoà thuận với thiên nhiên đã phát hiện được ở đó những điều kỳ diệu, cực kỳ bí ẩn. Họ tôn thờ đất có Thần linh, họ tôn thờ sông nước không có khái niệm mê tín, mà là tín ngưỡng được lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Đất là một vật chất và hình tượng cao quý thiêng liêng, là nguồn sống tuyệt đối của cư dân nông nghiệp, còn là vật phẩm là nghi lễ hôn nhân, và tục ăn đất còn tồn tại ở một số dân tộc thuộc ngữ hệ Môn, Khơme, vốn gần gũi với người Việt Nam như dân tộc Mường, Kháng, Ba Na, Lô Lô cùng truyền thống đức tin với người Việt.
 
Đã từng cùng triết lý Ngũ Hành: "Đất chủ về đức tín, nó chứa muôn vật có chức năng sinh hoá, và dưỡng dục nên là mẹ của muôn vật. Vì là mẹ nên có tính đôn hậu.
Đất là vật chất một nhận thức được tồn tại ngoài ý thức con người. Trở thành thiêng liêng cho rằng Đất là mẹ của muôn loài, có sự sống, có hồn, có sức mạnh, khôn ngoan và tình yêu. Dân gian khi động thổ xây dựng nhà đều có lễ vật xin phép để được bình an, mọi bề thuận lợi. Phải chăng tín ngưỡng này có từ thời xã hội thị tộc cho đến nay.
Hướng lên Nghĩa Lĩnh có Đền Hùng Vương cao sừng sững, xung quanh gồm có 99 ngọi núi xanh tốt, còn có 99 con Voi chầu voi Mẹ, và Bạch Hạc ở đỉnh tam giác hội tụ vào nơi ba dòng sông Hồng, Lô, Đà, làm trung tâm giữa miền Trung du, và đồng bằng để cân đối mọi hướng. Đây là vùng đất quý, phía sau Đền Hùng có núi non chạy từ Tây Bắc xuống Đông Nam phía trước có ba dòng sông hiệp tụ.
Kinh Dương Vương ngao du phong thuỷ đã chọn nơi này làm Kinh đô nước Văn Lang. Cổng Đền Hùng có đại tự "Cao sơn cảnh hạnh" đức hạnh cao minh, và câu đối "Thác thủy khai cơ tứ cố Sơn hà quy bản tịch", và "Đăng cao vong viễn quần phong la liệt tự nhi tôn" mở lối đắp nền, bốn mặt non sông về một mối lên cao trông rộng đồi núi tựa cháu con. Trụ ngoài "Đăng giả hệ hà tư vạn cổ giang sơn để tạo thủy Giai tai do vương khí, thiên niên thành quách úy thông gian" lên đây nhớ về cội giang sơn chốn này tạo dựng. Đẹp thay nhờ vượng khí, thiên niên thành quách tươi tốt giữa màu xanh. Nơi đây bà Âu Cơ đẻ bọc trăm trứng nở trăm con trai chấn giữ đầu non góc biển nơi chôn rau cắt rốn của Bách Việt nơi gắn liền với nghĩa đồng bào "hồn dân tộc", nơi dựng nước Văn Lang Nhà nước đầu tiên của Lạc Việt hồn nước. Đất Đền Hùng ngùn ngụt khí thiêng hồn dân tộc Việt.
* Biên tập Huỳnh Tâm.
* Nguyễn Văn An
* Trình bày bìa Huỳnh Tâm
Paris 19/3/2024.
Home Trang Chính 1 ] [  2 ] [ 3 ] [  4 ] [ 5 ] [  6 ] [ 7 ] [  8 ] 

[1] Các địa danh đã quá xa xưa và trải ra trên một không gian quá rộng nên không thể chú thích một cách chắc chắn các địa điểm nay thuộc xã nào, huyện nào. Nhưng chắc là đường đi chặt chu không ra ngoài tỉnh Thanh Hóa.
[2] Tha, chặng: các cách ngăn suối bắt cá.
[3] Thuộc xã Thiết Ống, huyện Bá Thước, Thanh Hóa.
[4] Thuộc xã Thiết Ống, huyện Bá Thước, Thanh Hóa.
[5] Hai thác lớn trên sông Mã thuộc địa phận xã Thiết Ống.
[6] Làng Kến: thuộc xã Thiết Ống.
[7] Tên gọi là Lan Hán thuộc xã Long Vân, huyện Bá Thước.
[8] Nay còn tìm thấy địa danh này ở huyện Bá Thước.
[9] Đúng ra là núi Làn Ai, thuộc hai xã Long Vân và Ban Công, huyện Bá Thước.
[10] Nay là xã Điền Lư, huyện Bá Thước.
[11] Một địa danh trong huyện Bá Thước.
[12] Nay là xã Quý Lương, huyện Bá Thước.
[13] Còn gọi là Chiềng Lẫm, thuộc xã Điền Lư, huyện Bá Thước.
[14] Thuộc xã Điền Lư, huyện Bá Thước.
[15] Nằm giữa hai huyện Bá Thước và Cẩm Thủy.
[16] Nay là Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy. Như vậy đã kéo chu từ Bá Thước sang Cẩm Thủy.
[17] Thuộc Cẩm Thủy.
[18] Thuộc Cẩm Thủy.
[19] Trên sông Mã, thuộc xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Thủy.
[20] Thuộc huyện Cẩm Thủy.
[21] Thuộc huyện Cẩm Thủy.
[22] Thuộc huyện Thạch Thành. Từ đây chu đã được kéo sang địa phận Thạch Thành.
[23] Thuộc huyện Thạch Thành. Từ đây chu đã được kéo sang địa phận Thạch Thành.
[24] Nay là phố Kimh Tân, huyện Thạch Thành.
[25] Nay là phố Cát.
[26] Thuộc Thạch Thành.
[27] Có thể là đền Sòng. Giáp giới hai huyện Thạch Thành – Hà Trung.
[28] Vùng giáp ranh giữa Thạch Thành – Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình.
[29] Thuộc xã Văn Đức, huyện Lạc Sơn.
[30] Cây chu được kéo sang đất Hòa Bình.
[31] Xã Thượng Cốc, huyện Lạc Sơn.
[32] Lang Đạo trông coi mường Quang, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình.
[33] Xã Ngọc Mỹ, huyện Tân Lạc.
[34] Xã Ngọc Mỹ, huyện Tân Lạc.
[35] Xã Phúc Tuy, huyện Lạc Sơn.
[36] Xã Phú Lương, xã Chí Đạo, huyện Lạc Sơn.
[37] Xã Phú Lương, huyện Lạc Sơn.
[38] Thuộc huyện Lạc Sơn.
[39] Thuộc huyện Lạc Sơn.
[40] Thuộc huyện Lạc Sơn.
[41] Tất cả địa điểm trên đều loanh quanh trong các huyện Tân Lạc, Lạc Sơn, Đà Bắc tỉnh Hòa Bình.
[42] Chưa rõ ở đâu, nhưng chắc là thuộc địa phận người Việt vùng Ba Vì, Hà Tây.
[43] Chưa rõ ở đâu, nhưng chắc là thuộc địa phận người Việt vùng Ba Vì, Hà Tây.
[44] Chưa rõ ở đâu, nhưng chắc là thuộc địa phận người Việt vùng Ba Vì, Hà Tây.
[45] Ậu mo: người đàn ông làm nghề cúng ma.
[46] Nhà trang trí văn hoa rồng rắn.
[47] Lá ngón: một loại lá độc, ăn chết người.
[48] Tên tự gọi của người Mường.
[49] Moong mật: Thú dữ.
[50] Moong hai: Cầy cáo.
[51] Khăng khai: Dài rộng.
[52] Moong ba, moong bảy: Các loại cáo, khỉ, hươu, nai.
[53] Hơn hớn: Nhăn nhở, độc ác.
[54] Núi Kem và núi Khến đều thuộc huyện Tân Lạc, Hòa Bình.
[55] Phá: vỏ chăn, vỏ gối.
[56] Bông = hoa.
[57] Sông Ải ở trên trời.
[58] Sông Âm ở âm phủ.
[59] Ngăn suối bắt cá.
[60] Hình con rồng trang trí trên đình, nghè...
[61] Đất.
[62] Nước.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét