XX
LÀM NHÀ CHU
Lang Cun Khương thịt trâu, thịt
bò
Cho làm cơm, làm rượu
Để làm vía cho Cun Tồi, Cun Tàng,
Lang Cun Khương
Rượu thơm cùng uống
Thịt nướng cùng ăn
Ăn xong Lang Cun Khương liền bảo:
- "Bây giờ,
Bố muốn làm nên cửa
Bố muốn sửa nên nhà
Bay phải đi mọi nơi
Tìm lấy mười ba người thợ khéo
Về đóng kiệu, đóng ngai
* * *
Ba con được lời
Đi ngược đi xuôi
Tìm được mười ba người thợ khéo
Đã đẽo nên cột
Đã gọt nên kèo
Bào nên xà dọc
Rọc nên xà ngang
Nhưng dựng nhà mấy lần đểu đổ
Đào ba mươi sáu lỗ mà dựng cột
không nên
Ba anh em
Lại đi khắp chu chương mường nước
Tìm rước về một ông Ậu mo[45]
Đầu Ậu có ba xoáy
Gáy Ậu có cánh dơi
Tai Ậu mỏng như chiếc mộc nhĩ
Ậu ăn, Ậu nhỉ
Ậu để trứng gà lên vành tai
Để tay lên sống mũi
Bói rằng:
"Nai đen bò vàng
Lợn lang trâu bạc
Ốc lặn ngoài đồng
Việc nhà ông Lang
Phải thịt năm trâu đen
Thịt năm con trâu bạc
Cúng ma ông, ma tổ
Cúng ma cố, ma bà
Cúng ma rừng, ma núi
Cúng ma chu, ma lụi
Lễ mường trời năm phương
Lễ mường đất tám hướng.
* * *
Nghe bói rành rành
Biết cành có lá
Biết cá có vây
Biết việc nhà này có chuyện.
* * *
Ba anh em ra bến
Về đến cửa đến nhà
Tâu lại vua cha
Những lời mo dặn.
* * *
Xong cúng, xong lễ
Lang Cun Khương dóng cồng đánh trống
Hò mường nước đến dựng nhà chu
Thế rồi
Nhà chu dựng nên rộng rộng
Trước vưòn dựng nhà Khú, nhà Rồng[46]
Đằng trong dựng nhà Long, nhà Phụng
Dựng nhà dài ngoài hiên
Làm nên nhà khách
Đặt nên nhà ăn làm
Làm kho lúa, kho muối
Làm kho mắm, kho bát
Chín ngăn kho vàng
Mười ngăn kho bạc
Làm ngăn kho súng
Làm vùng diêm sinh
Dựng dinh Cun Tồi
Dựng trại Cun Tàng
Xây bếp bạc
Xây ngõ vàng
Cho Lang Cun Khương
Dựng được nhà cun lang kẻ chợ
Làm nơi ăn, chốn ở
Cho nàng Dặt Cái Dành chăn tằm
ươm tơ
Xây nên cửa Đông
Trồng lên cửa Tây
Xây nên cửa Bắc
Đắp nên cửa Nam
Xây nên thành Đồng Chì Tam Quan Kẻ
Chợ
* * *
Nhà chu làm xong
Nhưng nhà chu chưa sáng
Trong nhà chu chưa rạng
Ngoài nhà chu chưa vang
Lúc ấy
Nghe đồn rằng:
- Có nàng Sông Đón
Đẹp lắm đẹp ghê
Má nàng đỏ như hoa
Tay nàng trắng như nõn chuối
Gót chân hồng như trứng gà
Nhưng nàng đã thương chàng Khán Đồng
Chẳng đến phải ai thương nữa
Lang Cun Khương nghe đau trong dạ
Nghe mỏi trong ngực
Nghe tức trong lòng
Muốn lấy nàng làm vợ
Nhưng không có mẹo
Rồi lang khéo nghĩ nên mưu
Bắt chàng Khán Đồng
Phải lội xuống sông
Tìm rùa vàng, nộp cho nhà lang
* * *
Khán Đồng ăn ngủ không yên
Ngày đêm ủ rũ
Cơm không buồn nuốt
Sáng đi thăm ruộng
Chiều đi săn muông
Lúc nào cũng chỉ nhớ nàng Sông
Đón
Chàng thổi sáo ôi
Gọi người tình lại
Nàng Sông Đón tới
Cùng ngồi ăn trầu
Rủ nhau ăn quả mơ, quả quýt
Khán Đồng nói lại lời Cun Cần
Đã bảo nên, dặn có
Khán Đồng nhớ thì nhớ
Sông Đón thương cứ thương
Hẹn nên tốt đằng chồng vợ
Thế trắc, thế trở
Không lấy được nhau
Thì cùng ăn lá ngón[47]
Một hôm đi làm rẫy
Khán Đồng gặp rùa vàng
Chạy về bắt lấy
Rùa ra sức chạy
Chui vào hang đá đen đen
Khán Đồng đút tay theo
Bỗng hòn đá ập lại
Tay mắc vào đá
Chẳng thể rút ra
Chẳng có ai mà kêu cứu
Lúc đó, con chó vằn vện
Đến bên chủ nhìn
Chó chạy xuống, chạy lên
Con chó thương chủ
Khán Đồng liền bảo:
- "Vện ơi! Chạy về nhà
Cắn váy nàng Sông Đón
Lôi đến cứu ta"
Nghe xong lời chủ
Vện chạy qua đồng
Vện băng qua sông
Về tìm nàng Sông Đón
Nàng đến đầu dốc
Mắt đã đỏ ngầu
Nàng gục đầu vào đá
Khóc chuyển núi rừng
Truyền đến tai ông Bụt
Bụt hiện lên bảo rằng:
- "Hỡi con gái yêu!
Hỡi con chiều, con chuộng
Chớ khóc lắm mà già
Đừng khóc nữa mà khổ
Ta biết con có hiếu
Ta hiểu con khôn ngoan
Ta sẽ cứu chồng con
Hai con đừng buồn nữa
Bụt vẫy tay khe khẽ
Đá té nhào nhào
Khán Đồng phủi tay choáng váng
Vội khoe với nàng Sông Đón:
- "Bụt cho ta rùa vàng"
Sông Đón và Khán Đồng
Đực Cun mừng lắm
Khán Đồng nghe tiếc của
Chẳng muốn nộp lang
Nhưng không nộp rùa
Thì mất nàng Sông Đón
Khán Đồng đành đem đi nộp
Xẩm tối mang rùa sang
Nhà Lang mừng quá
Hớn hở túm lấy rùa
Không đòi lấy nàng Sông Đón nữa
Lang Cun Cần sai người đi tìm thợ
Nấu nước rùa vàng
Đi tắm khắp nhà chu
Từ đó,
Sáng mái, sáng nhà
Sáng kho, sáng trại
Sáng ngai, sáng kiệu
Sáng chiếu, sáng giường
Sáng Đông, sáng Tây
Sáng Nam , Sáng Bắc
Một hôm,
Nhà Lang bắn pháo, tháo ống lệnh
Rồi cho đứa lính Cai Cả
Và đứa ở cai hầu
Đi mời các ông mường Bi, mường Vang
Mường Thành, mường Động
Mời những ông mường lớn nhất
Đến ăn mừng nhà chu
Khi nhà chu đã sáng tỏ
Ngõ nhà chu sáng cả binh mường
Sáng cửa, sáng người
Sáng trời, sáng đất
Thế mới thật nên nhà ông Cun, ông quan
Thật nhà ông lang mường Mọ[48]
* * *
XXI
ĐỐT NHÀ CHU
Từ ngày Tặm Tạch
Bỏ xác trên gốc chu
Bỏ lại vợ dại, với hai đứa con thơ
Nghe nhà Lang ăn mừng to
Thằng Tặm vơ lấy áo
Con Tạch chạy theo anh
Hai đứa đến nhà Lang
Đứng ngoài đường mà ngó
Người ta ăn mừng cửa
Sao bố mình đã chết đi?
Người ta ăn mừng nhà
Sao bố mình đã chết mất
Bố có công đi tìm chu mật
Bố có công đi tìm chu sáng, chu vàng
Bố có công tìm của
Bố có công mách dàng
Sao cho ta nhịn đói?...
Thấy Cun Tồi đi tới
Hai đứa vội tránh đàng
Ngỡ bước chân ông lang
Ra đón con của người có công vào cửa
Nhưng Cun Tồi cứ đi nữa
Bỏ qua hai đôi mắt trông mong
Chân đứng đã mỏi
Bụng đói đòi ăn
Thằng Tặm, con Tạch đi dần vào sân
Lính cai lôi ngay ra cửa
Đuổi hai đứa ra bờ rào
Thằng Tặm, con Tạch ngó nhau
Rầu rầu đi qua rào, qua ngõ
Trở chân về nhà
Hai đứa còn con nít
Đã biết tức biết căm
Mặt giận nên hầm hầm
Mắt căm nên tía tía
Thằng Tặm cầm một ống xương bò
Giáng mạnh vào mặt trống
Mặt trống thủng mảng lớn
Trống tan, tang rách
Lập tức
Cun Tồi xách gươm cán bạc
Cun Tàng xách kiếm cán ngà
Lăm lăm chực chém
Sẵn ống xương, Tặm, Tạch ném vào mặt lính
Hai đứa nói rằng:
- "Ới, ông Lang
Bố tôi chịu bỏ xác
Trên đồi Lai Láng, Lai Ly
Chết nằm trên đồi chu
Bỏ của, bỏ cơm
Bỏ con, bỏ vợ
Mà các ông sao ở bạc?
Mà mường nước sao vô tình?"
* * *
Mặc các lang ngó theo
Thằng Tặm trèo lên cửa sổ
Cất giọng khấn ma bố
Vươn cổ gọi ma bà
Khấn rằng:
- "Ma ông về đâu hãy nghe cho rõ
Ma bố ở đâu hãy về mà bênh con"
Lập tức,
Trời tối mây đen
Ù ùn sấm chớp
Thắp đèn, đèn tắt
Tháp đuốc, đuốc tàn
Anh em Tặm, Tạch nhảy quàng ra sân
Chạy luôn ra ruộng
Chạy xuống rừng dâu
Chạy vào suối cạn
Chạy ra hòn sâu
Chạy vào rừng cao
Chạy ra bãi lớn
Chạy quanh, chạy lộn
Trốn biệt mất tăm
Nhà Lang đến bắt tội mẹ
Tặm, Tạch lại phải mò về
Ra xưng, vào thú
Cun Khương quay lại bảo Tặm, Tạch:
- "Bay về bán cửa bán nhà
Bán đồng gần đồng xa
Mua cho nhà lang chín con khỉ
Một trăm con mèo
Chuộc vạ mới xong"
Tăm, Tạch đi ra
Lòng nghe tức bực
Thương mẹ, giận nhà Lang
Bèn đứng giữa đàng kêu khóc
Ai thấy cũng thương
Người người dừng chân dỗ ngọt
Thế rồi,
Có bà già đi gặt
Lật đật quảy gánh đi qua
Hỏi ra, hỏi dồn:
- "Cháu ơi, cháu à!
Nhà có việc gì
Mà ra ngồi đây khóc lóc".
Thằng Tặm chìa tay áo
Lau nước mắt
Nói ngay, nói thật
Bà đi gặt, rưng rưng nước mắt
- "Thôi thôi, Tặm à
Khóc qua đi Tạch hỡi!
Hai cháu chớ ngồi chốn này khóc lóc
Đừng khóc cho nhọc cho nhằn
Đừng khóc nhăn khóc hại
Đừng khóc nhói, khóc thương
Đã thế
Các cháu hãy buộc rơm vào đuôi mèo
Treo lửa vào đuôi khỉ
Để nó leo lên nhà chu nhà lụi".
Liền đó
Thằng Tặm, con Tạch
Xách gói trở về
Nghe lời bà đi gặt
Đặt cách đặt lời
Đã nghe vui trong dạ
Nghe hả trong lòng
Thằng Tặm, lội rừng không còn mệt
Con Tạch lội rậm không biết nhọc
Bắt khỉ bắt mèo
Buộc vội, buộc vàng
Đốt lửa vào rơm
* * *
Nhà chu đùng đùng bốc cháy
Rực cả núi con Ai
Sáng cả đồi Lai Ly, Lai Láng
Lửa bốc mười chín ngày
Khói tỏa mười chín đêm
Cháy hết quèn, hết đất
Cháy hết nhà, hết đụn
Cháy đúng kho diêm sinh
Cháy hết dinh Cun Tồi
Cháy sém sập bạc, ngai vàng
Cháy lan ra mường
Cháy quàng ra núi
Cháy cả đồi chăn trâu
Lửa cháy đến đâu
Khói ào đến đó
Trụi rừng, hết cỏ
Nát đá, cạn khe
Anh em nhà Lang
Xông ra đuổi chém anh em Tặm, Tạch
Nhưng anh em Tặm, Tạch
Đã chạy lên núi, lên rừng, vào thung, xuống ruộng
Thằng Tặm biết biến hóa
Con Tạch biết ẩn chui
Ẩn vào gốc cây si
Nhà Lang đi qua chẳng biết
Mường nước đi đến chẳng hay
Lang Cun Khương vác dao chém lăng
nhăng
Chém vội cây si giữa đồng
Cho hả lòng, hả tức
Để hả cơn bực đuổi thua
Không ngờ trong cây si có máu đỏ
chảy ra
Máu người hòa máu si trắng đục
Thương thằng Tặm, con Tạch
Biến ra cây, còn máu thật máu
tươi
Máu còn đây mà người chẳng thấy
Máu chảy vào gốc cây cà
Cây cà liền biến ra con moong mật[49]
Máu chảy vào bụi rau lốt
Bụi rau lốt biến ra con moong hai[50]
Máu chảy vào trong rừng khăng
khai[51]
Rừng khăng khai biến nên con moong ba, moong bảy[52]
Có một tia máu ròng ròng
Biến ra con moong biết cười hơn hớn[53]
Con moong lớn tường vường
Cả rừng, cả truông
Không con nào to bằng con ấy
Sấm dậy
Nó mọc móng, mọc vuốt
Sét dậy
Nó mọc mắt, mọc tai
Tai nó biết dò
Chân nó biết bò, biết đi
Khoác vằn rằn ri ngang lưng, dọc sống
Nó giống con hươu sao
Nhưng nó hay cào, hay cắn
Mắt sáng như đuốc, như nến
Móng vuốt sắc bén như liềm cắt gianh
Người không thiêng không lành
Ai chạy không nhanh
Thì bị nó bắt, nó vồ, nó dằng, nó xé
Từ đó
Khắp mường, khắp rừng
Đều sợ con moong hung ác
Đều khóc khi thấy dấu chân moong
Đầu hôm
Con moong bắt lợn bắt gà
Sáng ra
Con moong bắt trâu bắt ngựa
Nửa ngày
Con moong bắt người đi rừng
Vồ người đi đường đi sá
Vồ cả bà lang Khương đi về nhà ngoại
Bắt ông lang Vông đi thăm nhà em
Mường dưới, mường trên
Phải chạy moong cả đêm cả ngày
Sợ con moong vuốt dài
Mắt lồi hung dữ
Thứ moong gớm gớm
Đi sớm
Moong bắt người đi sớm
Đi chiều
Moong bắt người đi chiều
Thế là
Phải sắm giáo, sắm mác
Rèn súng, rèn gươm
Đi săn, moong lồ
Moong quái, moong gở.
* * *
XXII
SĂN MOONG LỒ
Con moong lồ, lúc còn nhỏ bằng con mèo
Nằm chèo queo trong bụi lá lốt
Ngày một, nó bắt gà
Ngày hai, nó bắt lợn
Ngày ba, nó bắt bò
Ngày bốn, nó bắt trâu
Thứ năm, dấu chân moong bằng miệng bát
Dấu moong nổi vằn bông chu
Moong nằm sấp thì to bằng nong
Nanh bày, nanh cong nhọn hoắt
Mắt trợn trừng hau háu
Moong gầm như sấm rền
Bước chân ra ruộng
Dấu chân moong bằng sá bừa
Bước chân ra rừng
Dấu chân moong bằng vạt cày
Moong mỗi bữa một to
Moong mỗi ngày một lớn
Moong nằm rừng - kêu là moong một
Nằm cửa rừng - gọi là moong hai
Nằm dưới gốc mài - kêu là moong mật
Nằm dưới gốc chò - gọi là moong bốn, moong năm
Nằm quanh rừng - là moong sáu
Nằm rừng vầu - là moong bảy
Nhảy rừng ổi - là moong tám
Vọt rừng trám - là moong chín
Đến rừng me mịn - là moong mười
Lúc nhỏ ăn nòng nọc
Lúc lớn, ăn gà, ăn trâu
Ăn bò, ăn ngựa
Có bữa, vồ luôn cả người
Móc con người ăn nhiều nhá
Mỗi ngày moong lồ cao vượt
Mỗi bữa moong lồ to bè
Lội khe không ướt móng
Moong đứng, tuột khoang chân trời
Moong ngồi, chiếm mười nương chín rẫy
Moong gầm, trôi cả mây
Moong hét, tan cả mù
Người ta đồn, con moong lồ vênh
vang
Ăn chín ngàn rừng xanh ăn xuống
Ăn trăm chốn rừng già ăn ra
Đi vào ăn da
Trở ra ăn thịt
Ăn hết con nít
Ăn đến ông già
Trăm người, trăm nhà
Phải đi săn moong
Đến sớm ngày mai
Nhà ai không có cơm thì đổ lúa mà
xay
Nhà ai không có cá thì tát đầm mà
bắt
Phải đi săn moong
Người mang lưới ba nghìn mắt
Người mang dây ba nghìn sải
Chọn ngày lành tháng tốt
Mà hội chu chương
Sáng ngày hôm sau đi săn sớm sớm
Đem một bầy chó lớn
Đem một bầy chó săn
Vượt qua mười dốc, trăm đèo
Đến đồi lim lớn
Đến chốn si, da
Bến moong qua
Mọi người theo hướng đó
Họ săn vào rừng gianh
Gặp cây không dám chặt cành
Sợ con moong lồng lộn
Thấy con moong lớn
Mình bằng quả đồi
Vú bằng gò mối
Lông moong vằn vện
Mắt moong rực hồng
Đuôi moong bằng cây vông
Vuốt sắc như gai bồ kết
Moong nằm, đồi bé không che hết hông
Moong ngồi, núi lớn không che hết vú
Đã biết vùng nằm của con thú
Lang Cun Khương và Cun Tàng
Hò đằng dưới hò lên
Cồng săn trên gõ xuống
Moong giật mình luống cuống
Nhào vào rừng vo
Vào gò rừng vót
Gặp đất rừng giang
Chó sủa oang oang
Đồng phang rối rối
Moong lồ nhào chạy bổ
Moong là cố chạy dài
Chui ngay vào núi Kem[54]
Chui quàng vào núi Khến
Hang hẹp đã chẹn
Kem, Khến giữ moong
Đợi chu chương ập lại
Gậy bổ xuống như rang
Gậy phang xuống như sét
Lấy mác mà đâm
Lấy giáo mà phóng
Chém chết con moong lồ
Nhà Lang gọi cả mường dựng lên
Một nửa người khiêng đầu đằng dưới
Một nửa người khiêng đầu đằng trên
Mang về nhà lang làm thịt
Người Lào đến trước lấy được da đằng
hông
Mường trong đến tiếp, lột da đằng
lưng
Nên biết thêu thùa hình lưng ngựa
Người Tày đến muộn
Phải lấy da đằng đuôi
Chỉ biết thêu hình con sâu, con
ong
Dân mường một lòng
Giũ lấy da trước ngực
Nên con gái Mường biết dệt đầu
váy con hươu
Thêu được hình yêu yêu để đùm vú
Người Kinh người Chợ
Ở ngái, ở xa
Đến chỉ còn thịt pha, lòng, mỡ
Chặt ống để bỏ
Hỗ Ống để mang
Nên người Kinh biết nấu thịt ngon
Để truyền cho người mường trên,
mường dưới.
[1] Các địa danh đã quá xa xưa và trải ra trên một không gian quá rộng
nên không thể chú thích một cách chắc chắn các địa điểm nay thuộc xã nào, huyện
nào. Nhưng chắc là đường đi chặt chu không ra ngoài tỉnh Thanh Hóa.
[2] Tha, chặng: các cách ngăn suối bắt cá.
[3] Thuộc xã Thiết Ống, huyện Bá Thước, Thanh Hóa.
[4] Thuộc xã Thiết Ống, huyện Bá Thước, Thanh Hóa.
[5] Hai thác lớn trên sông Mã thuộc địa phận xã Thiết Ống.
[6] Làng Kến: thuộc xã Thiết Ống.
[7] Tên gọi là Lan Hán thuộc xã Long Vân, huyện Bá Thước.
[8] Nay còn tìm thấy địa danh này ở huyện Bá Thước.
[9] Đúng ra là núi Làn Ai, thuộc hai xã Long Vân và Ban Công, huyện Bá
Thước.
[10] Nay là xã Điền Lư, huyện Bá Thước.
[11] Một địa danh trong huyện Bá Thước.
[12] Nay là xã Quý Lương, huyện Bá Thước.
[13] Còn gọi là Chiềng Lẫm, thuộc xã Điền Lư, huyện Bá Thước.
[14] Thuộc xã Điền Lư, huyện Bá Thước.
[15] Nằm giữa hai huyện Bá Thước và Cẩm Thủy.
[16] Nay là Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy. Như vậy đã kéo chu từ Bá Thước sang
Cẩm Thủy.
[17] Thuộc Cẩm Thủy.
[18] Thuộc Cẩm Thủy.
[19] Trên sông Mã, thuộc xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Thủy.
[20] Thuộc huyện Cẩm Thủy.
[21] Thuộc huyện Cẩm Thủy.
[22] Thuộc huyện Thạch Thành. Từ đây chu đã được kéo sang địa phận Thạch
Thành.
[23] Thuộc huyện Thạch Thành. Từ đây chu đã được kéo sang địa phận Thạch
Thành.
[24] Nay là phố Kimh Tân, huyện Thạch Thành.
[25] Nay là phố Cát.
[26] Thuộc Thạch Thành.
[27] Có thể là đền Sòng. Giáp giới hai huyện Thạch Thành – Hà Trung.
[28] Vùng giáp ranh giữa Thạch Thành – Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình.
[29] Thuộc xã Văn Đức, huyện Lạc Sơn.
[30] Cây chu được kéo sang đất Hòa Bình.
[31] Xã Thượng Cốc, huyện Lạc Sơn.
[32] Lang Đạo trông coi mường Quang, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình.
[33] Xã Ngọc Mỹ, huyện Tân Lạc.
[34] Xã Ngọc Mỹ, huyện Tân Lạc.
[35] Xã Phúc Tuy, huyện Lạc Sơn.
[36] Xã Phú Lương, xã Chí Đạo, huyện Lạc Sơn.
[37] Xã Phú Lương, huyện Lạc Sơn.
[38] Thuộc huyện Lạc Sơn.
[39] Thuộc huyện Lạc Sơn.
[40] Thuộc huyện Lạc Sơn.
[41] Tất cả địa điểm trên đều loanh quanh trong các huyện Tân Lạc, Lạc
Sơn, Đà Bắc tỉnh Hòa Bình.
[42] Chưa rõ ở đâu, nhưng chắc là thuộc địa phận người Việt vùng Ba Vì,
Hà Tây.
[43] Chưa rõ ở đâu, nhưng chắc là thuộc địa phận người Việt vùng Ba Vì,
Hà Tây.
[44] Chưa rõ ở đâu, nhưng chắc là thuộc địa phận người Việt vùng Ba Vì,
Hà Tây.
[45] Ậu mo: người đàn ông làm nghề cúng ma.
[46] Nhà trang trí văn hoa rồng rắn.
[47] Lá ngón: một loại lá độc, ăn chết người.
[48] Tên tự gọi của người Mường.
[49] Moong mật: Thú dữ.
[50] Moong hai: Cầy cáo.
[51] Khăng khai: Dài rộng.
[52] Moong ba, moong bảy: Các loại cáo, khỉ, hươu, nai.
[53] Hơn hớn: Nhăn nhở, độc ác.
[54] Núi Kem và núi Khến đều thuộc huyện Tân Lạc, Hòa Bình.
[55] Phá: vỏ chăn, vỏ gối.
[56] Bông = hoa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét