Các nghệ nhân thể hiện lại cảnh hát sli chào hỏi trong lễ
cưới
Kho tàng văn hóa nghệ thuật của đồng bào Nùng tương đối
phong phú và độc đáo, trong đó phải kể tới những làn điệu dân ca Nùng. Chưa có
một người nào và chưa có một công trình nghiên cứu nào điều tra, thống kê,
nghiên cứu và sưu tầm được đầy đủ về dân ca của đồng bào Nùng. Tuy vậy, nói đến
dân ca Nùng là nói đến một sự phong phú về thể loại, làn điệu, và nội dung phản
ánh: làn điệu ru, làn điệu đồng dao, làn điệu then, mo, sliên, tào..., đặc biệt
là sli, lượn và cỏ lảu.
Làn điệu sli - một lối hát ví,
giao duyên của thanh niên nam nữ. Theo nhà nghiên cứu Vi Hồng trong cuốn “
Sli, lượn dân ca trữ tình Tày – Nùng” thì:
Sli có nghĩa là
thơ. Người Nùng dùng từ sli để chỉ toàn bộ dân ca mang tính
trữ tình của họ cũng như người Tày dùng từ lượn để chỉ hầu
như toàn bộ dân ca của mình. [1,tr. 29].
Khác với nhóm Nùng Giang, Nùng Cháo..., hình thức hát sli (Nùng
Phàn Slình) là diễn xướng tập thể theo lối hát bè. Sli Phàn Slình
khi hát phải có đôi và đặc biệt đôi đó phải hợp giọng. Họ hát theo lối ứng khẩu
và theo cảm xúc. Tuy nhiên sli của dân tộc Nùng khác với lượn của
người Tày ở chỗ có thể diễn xướng trong mọi thời gian không gian, miễn sao có đủ
điều kiện, trong những dịp chợ xuân, hội lồng tồng, hội óc pò, dọc đường đi, mừng
đám cưới, giao duyên, đố nhau, thách nhau hay mừng nhà mới... Lời hát sli thường
theo thể thất ngôn tứ tuyệt, vần bằng, còn lời hát lượn thường
là thất ngôn trường thiên, vần lưng. Dân tộc Nùng có nhiều nhóm với những tên gọi
khác nhau và được phân biệt qua những đặc điểm văn hoá cũng như nguồn gốc địa
phương. Chính vì vậy các làn điệu dân ca của mỗi nhóm Nùng lại có những nét độc
đáo riêng. Cùng gọi làsli nhưng nhóm Nùng Giang có sli
Giang, Nùng Cháo có sli Slình Làng, Nựng Phàn Slình cú sli
Phàn Slình... Bên cạnh đó các bài đồng dao, văn tế, hát đám cưới, mừng
nhà mới... cũng không hoàn toàn giống nhau. Mỗi nơi một vẻ, nhưng đều hay, hấp
dẫn và làm say đắm lòng người.
Đặc điểm của hát sli trong tất cả các
nhóm Nùng là hát không cần có nhạc cụ đệm, không có vũ đạo kèm
theo và có thể hát ở bất cứ lúc nào, chỗ nào, miễn là nơi đó có “đối tượng hát”.
Vào những lúc rỗi rãi, nông nhàn hay bất cứ lúc nào thích hợp,
trai gái người Nùng thường tụ họp từng đôi, từng nhóm hát sli giao
duyên đối đáp với nhau, đặc biệt là sli Hà Lều khi hát phải
áp hai tay vào tai. Nhà nghiên cứu Vi Hồng trong cuốn “Sli, lượn dân
ca trữ tình Tày – Nùng” nói về hình thức diễn xướng của sli
Hà Lều như sau:
Khi tiến hành sli hai bên đều bịt tai.
Người đang sli tự bịt tai mình để tự nghe cái âm hưởng đặc
biệt tiếng sli của chính mình âm vang trong tâm hồn mình...
Khi hai người sli đã đến mức bịt tai là lúc tình yêu đôi người
đã đến mức say đắm” [1,tr. 26].
Ngoài sli, trong kho tàng dân ca của dân
tộc Nùng còn có lượn, và đặc biệt là cỏ lảu.
Làn điệu cỏ lảu là một loại dân ca phổ biến, chỉ chuyên dùng
trong đám cưới của dân tộc Nùng nói chung và người Nùng Phàn Slình nói
riêng. Cỏ lảu tức là nói chuyện về đám cưới, trong đám cưới.
Nếu như trong đám cưới của người Tày có hát quan làng thì
người Nùng có cỏ lảu. Đó là một cách nói chuyện, một hình thức
giao tiếp thông qua những bài hát trong đó chứa đựng những tình cảm trân trọng
đối với cha mẹ, họ hàng, những người có công vun đắp, tác thành cho đôi lứa.
Trong kho tàng văn hóa nghệ thuật của dân tộc Nùng phải kể
đến nhạc khí. Nhạc khí của dân tộc Nùng rất phong phú, đa dạng, bao gồm: Nhị,
trống, thanh la, não bạt, chũm chọe, chuông, nhạc sóc, tiêu, sáo ngang... Sáo
chủ yếu dùng trong các ngày vui như tết, cưới xin, nhị, kèn chủ yếu sử dụng
trong tang lễ; trống, thanh la, não bạt chủ yếu sử dụng trong hội.
Các loại nhạc khí của đồng bào Nùng
Bên cạnh đó, đồng bào Nùng còn rất thích múa. Trong các dịp
hội hè đầu xuân, trong các buổi tế lễ, theo phong tục đồng bào vừa múa vừa hát
rất nhộn nhịp. Về múa, người Nùng có các điệu múa “rồng”, múa “đèn”, múa “siêu
tâng” (còn gọi là “xiên tâng” hay “xiên mèng pủ”), múa “kỳ lân”... vừa khỏe mạnh,
vừa mềm mại, yểu điệu và khéo léo. Nghệ thuật múa của người Nùng có từ lâu đời,
là một trong những bộ môn nghệ thuật diễn tả tư tưởng tình cảm con người, được
đồng bào Nùng rất yêu thích và gìn giữ. Những điệu múa này thường được thấy
trong dịp tết, đám tang, ngày hội… và đã được các nhà nghiên cứu cải biên dàn dựng
làm giàu thêm cho nền văn hoá dân tộc.
Ngô Thị Việt Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét