Tên tự gọi:Bố Y.
Tên gọi khác: Chủng Chá, Trọng Gia...
Nhóm địa phương: Bố Y và Tu Dí.
Dân số: 2.273 người.
Ngôn ngữ: Nhóm Bố Y nói ngôn ngữ Tày -
Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai), còn nhóm Tu Dí nói ngôn ngữ Hán (ngữ hệ Hán - Tạng).
Lịch sử: Người Bố Y di cư từ Trung Quốc
sang cách đây khoảng 150 năm.
Hoạt động sản xuất: Người Bố Y vốn giỏi làm ruộng
nước nhưng đến Việt Nam cư trú ở vùng cao nên chủ yếu phải dựa vào canh tác
nương rẫy và lấy ngô làm cây trồng chính. Bên cạnh đó mỗi gia đình thường có một
mảnh vườn để trồng rau. Ngoài nuôi gia súc, gia cầm họ còn nuôi cá ruộng và biết
làm nhiều nghề thủ công như dệt, rèn, gốm, đục đá, chạm bạc, đan lát, làm đồ gỗ...
Bộ nữ phục Bố Y có một nét đẹp riêng ở gam
màu lạnh, lối tạo hoa văn bằng sáp ong trên váy và chiếc yếm dài trước ngực.
Nghề dệt, nhuộm và may mặc truyền thống của họ đang bị mai một dần.
Ăn: Người Bố Y ăn ngô xay nhỏ đem luộc cho chín dở rồi
mới đồ lên gọi là mèn mén.
Mặc:Trước đây, phụ nữ mặc váy xoè như váy của phụ nữ
Hmông, váy được tạo hoa văn bằng cách bôi sáp ong lên mặt vải rồi đem nhuộm
chàm. Áo ngắn 5 thân có ống tay rời, xiêm che ngực và bụng. Phụ nữ
đeo trang sức bằng bạc gồm dây chuyền, vòng tay, khuyên tai; tóc được búi ngược
lên đỉnh đầu, đội khăn chàm có thêu hoa văn bằng chỉ màu. Ngày nay, họ mặc giống
như người Nùng trong cùng địa phương. Phụ nữ nhóm Tu Dí ăn mặc theo kiểu người
Hán nhưng áo có ống tay rời.
Ở: Người Bố Y cư trú ở Quản Bạ (Hà Giang) và Mường
Khương (Lào Cai). Họ ở nhà đất có 2 mái lợp gianh, gỗ hoặc ngói, tường đất
trình. Nhà có 3 gian, có sàn gác trên quá giang là chỗ để lương thực và là chỗ
ngủ của những người con trai chưa vợ.
Quan hệ xã hội: Có sự phân hoá giai cấp rõ rệt.
Tầng lớp trên gồm trưởng bản (pin thàu) và người giúp việc (xéo phải).
Cưới xin - Gồm 3 bước:
Bước 1: Nhà trai cử 2 bà mối sang nhà gái xin lá
số cô gái về để so tuổi. Nhà gái thường tỏ thiện chí bằng cách tặng nhà trai 10
quả trứng gà nhuộm đỏ. Nếu thấy "hợp tuổi", nhà trai cử 2 ông mối
sang trả lá số và xin "giá ăn hỏi".
Bước 2: Lễ ăn hỏi. Sau lễ này, hôn nhân của đôi trai gái coi
như được định đoạt.
Bước 3: Lễ cưới. Nhà trai đưa sính lễ cho nhà gái. Ngoài một
số thực phẩm còn có 1 bộ trang phục nữ. Chàng rể không đi đón dâu. Khi về nhà
chồng, cô dâu cưỡi ngựa do em gái chồng dắt và mang theo một cái kéo, 1 con gà
mái nhỏ để đến giữa đường thì thả vào rừng.
Sinh đẻ: Xưa kia, người phụ nữ có tục
đẻ ngồi, cắt rốn cho trẻ bằng mảnh nứa, nhau (rau) chôn ngay dưới gầm giường.
Khi đứa trẻ được 3 ngày làm lễ cúng mụ, đặt tên tục, đến khi được 2- 3 tuổi mới
đặt tên chính thức. Nếu đứa trẻ hay ốm đau thì phải tìm bố nuôi cho vía của nó
có chỗ nương tựa.
Làng bản của người Bố Y đã định cư từ nhiều
đời. Hầu hết các kiến trúc của họ đều kiên cố. Có thể bắt gặp nhiều mái ngói âm
dương (ngói máng) hay ngói gỗ trên những căn nhà trình tường.
Ma chay: Ma chay là thể hiện tình cảm
của người sống với người chết và đưa hồn người chết về quê cũ. Trước khi đưa
đám bắn 4 phát súng, lúc khiêng quan tài cho chân người chết đi trước. Từ nhà đến
huyệt phải nghỉ 3 lần (nếu vợ hoặc chồng còn sống) hoặc 4 lần (nếu vợ hoặc chồng
đã chết). Người nhà để tang 3 năm, trong thời gian có tang con trai không được
uống rượu, con gái không được đeo đồ trang sức, con cái không được lấy vợ, lấy
chồng.
Thờ cúng: Trên bàn thờ đặt 3 bát hương
thờ trời, táo quân và tổ tiên. Dưới gầm bàn thờ đặt một bát hương thờ thổ địa.
Nếu bố mẹ vợ chết không có người thờ cúng thì con rể lập bàn thờ nhỏ cạnh cửa để
thờ.
Lễ tết:Có nhiều Tết: Nguyên đán, Rằm tháng
giêng, 30 tháng giêng, Hàn thực, Ðoan ngọ, Mùng 6 tháng 6, Rằm tháng 7, Cơm mới.
Tết Cơm mới tổ chức vào tháng 8 hay tháng 9 âm lịch, có bánh chưng, bánh chay
và xôi nhuộm màu.
Ði chợ luôn là nhu cầu của cư dân vùng cao
biên giới Việt - Trung, cả người trẻ lẫn người già. Phút nghỉ ngơi của người phụ
nữ Bố Y
Lịch: Người Bố Y tính ngày, tháng theo âm lịch.
Học: Trước đây có một số người dùng chữ Hán để ghi
gia phả, viết bài cúng, làm lá số...
Văn nghệ: Ở nhóm Tu Dí thường hát
đối đáp tại phiên chợ xuân hay tại nhà, lời ca bằng tiếng Hán, được phụ hoạ bằng
kèn lá.
Chơi: Trong dịp hội hè, người Bố Y có các trò chơi
đánh đu, cờ tướng, đánh quay, đánh khăng.
Long Nhật (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét