Tên
gọi khác: Xá Khắc, Phlắc, Khlá Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu
Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống, Bủ Hà, Pụa.
Nhóm
địa phương: La Ha cạn (Khlá Phlao), La Ha nước (La Ha củng).
Tên
tự gọi: La Ha, Klá, Phlạo.
Ngôn
ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai, (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).
Lịch
sử:
Người
La Ha có mặt sớm ở miền Tây Bắc nước ta. Theo những tài liệu chữ Thái cổ thì
vào thế kỷ XI, XII khi người Thái Ðen thiên di tới vùng đất này, họ đã gặp tổ
tiên của người La Ha hiện nay. Chính vì vậy, khi làm lễ cúng Mường, người Thái
vẫn còn tục đặt cỗ "trâu trắng" để tế thần ¡m Poi - một thủ lĩnh nổi
tiếng của người La Ha vào đầu thế kỷ XI.
Cư
trú: Cư trú tại Sơn La và Lào Cai
Đặc
điểm kinh tế:
Người
La Ha bắt đầu làm ruộng nước nhưng loại hình kinh tế chính vẫn là nương rẫy du
canh du cư và săn bắt, hái lượm. Phương thức canh tác đơn giản, dùng gậy chọc lỗ
và dao phát nương. Cây trồng chủ yếu là lúa nếp, ngô, đậu tương, bông.
Việc
hái lượm rất quan trọng, thường xuyên hơn so với săn bắn và đánh cá. Ngày nay
nhiều bản đã làm ruộng, biết đắp bờ chống xói mòn nương; có nơi đã biết dùng
phân bón. Chăn nuôi có lợn, gà, nay có thêm trâu, bò dùng để cày kéo.
Phụ
nữ La Ha không biết dệt vải, do đó họ phải đem bông đổi vải của người Thái để
may mặc
Quan
hệ xã hội:
Người
La Ha sống theo làng bản là Khun cai, hai người giúp việc Khun cai là Khun
tang, Khun téng do dân cử ra.
Gia
đình người La Ha là gia đình nhỏ, phụ hệ. Không chỉ con cái mang họ bố mà vợ
cũng phải mang họ chồng. Con gái không được thừa kế tài sản.
Hôn
nhân gia đình:
Trai
gái La Ha được tự do tìm hiểu nhau, không bị cha mẹ ép buộc cưới gả, tuy nhiên
việc cưới gả phải được cha mẹ ưng thuận. Để tỏ tình chàng trai phải đến nhà cô
gái và dùng sáo, nhị, lời hát trước khi trò chuyện bình thường. Sau lễ dạm hỏi,
nếu nhà gái không trả lại trầu do bà mối của nhà trai đưa tới thì tổ chức lễ
xin ở rể và chàng trai phải ở rể từ 4 đến 8 năm. Hết hạn đó, lễ cưới mới được
tiến hành, cô dâu được về ở nhà chồng. Vợ phải đổi họ theo chồng.
Hôn
nhân một vợ một chồng đã mang tính chất mua bán thể hiện ở khoản tiền cưới gọi
là nang khả pom (giá đầu người) để trả ơn bố mẹ vợ và tục ở rể. Tuy nhiên trai
gái được tự do tìm hiểu, không có sự ép buộc của cha mẹ. Sau thời gian tìm hiểu
từ 3 đến 10 ngày người con trai nói với bố mẹ cử người đi dạm. Nhà gái nhận
trâu và đưa áo của cô gái cho bên nhà trai xem bói. Nhà gái chia trầu cho họ
hàng để hỏi ý kiến. Ai không đồng ý thì trả lại trầu. Trong 5 ngày nếu nhà gái
không trả lại trầu cho nhà trai có nghĩa là nhà gái đồng ý và 10 ngày sau người
con trai đến nhà gái bắt đầu ở rể làm công cho bố mẹ vợ. Thời gian ở rể là từ 4
đến 8 năm. Hết hạn ở rể mới bắt đầu tổ chức lễ cưới chính thức thu mà phu (làm
cơm rượu). Sau lễ cưới này, cô dâu được đón về nhà chồng, đổi họ theo họ chồng
và không được quay về ở với bố mẹ đẻ nữa, dù chồng chết. Trường hợp người đàn
bà goá đi bước nữa, người chồng thứ hai mang lễ cưới nhỏ thu cơi poọng (làm gà
báo cưới) đến gia đình người chồng thứ nhất chứ không cần có quan hệ gì với bố
mẹ của người đàn bà goá. Người đàn bà goá đi bước nữa vẫn quan niệm rằng khi chết
đi, hồn lại tìm về với người chồng chính thức đã làm lễ thu mà phu. Vì vậy, ở một
số nơi, bố mẹ đã chết cả mà chưa làm được lễ cưới thu mà phu thì con phải làm lễ
cưới đó cho bố mẹ để bố mẹ được sống với nhau ở thế giới bên kia.
Tục
lệ ma chay:
Người
La Ha không có tục đốt xác như người Thái Ðen mà đem chôn. Người chết được đem
chôn trong nhà mồ. Mái nhà mồ được lợp bằng gianh dỡ một phần của mái nhà ở
mang ra. Trong nhà mồ đặt những thứ cần thiết cho một cuộc sống như: giỏ cơm,
quần áo, chăn, đệm. Thi hài được liệm bằng vải hoặc bằng chiếu nan và khiêng ra
đến mộ mới bỏ vào quan tài và hạ huyệt. Nếu người chết là bố, người con trai cầm
dao phá nơi thờ cũ đuổi ma bậc ông đi để bắt đầu thờ ma bố. Nếu người chết là mẹ,
con trai cầm dao đập vào phên chỗ mẹ ngủ, tượng trưng cho việc đuổi ma bậc bà
đi để bắt đầu thờ ma mẹ. Người chết được đặt nằm dọc theo cây xà ngang, nếu người
chết là bố thì đặt nằm dưới cây xà ngang thứ nhất, nếu là mẹ, đặt dưới cây xà
ngang thứ hai, nếu người chết là con trai cả đặt nằm dưới cây xà ngang thứ
ba... Khi khiêng người chết đi chôn, người chết là bố thì khiêng ra cửa gian
khách (quản), là mẹ phá vách trước khiêng ra, nếu là con khiêng ra cửa sàn.
Trên huyệt người ta đã dựng sẵn một cái nhà nhỏ có 2 mái cao chừng 2m. Mái nhà
mồ lợp bằng gianh dỡ một phần của mái nhà ở mang ra. Người chết là bố thì dỡ
gianh ở phía đầu chỗ ngủ để lợp. Nếu người chết là mẹ thì dỡ gianh ở mái nhà
phía chân chỗ ngủ, là con trai thì dỡ gianh mái hồi phía sàn phơi thóc, con gái
thì dỡ gianh ở mái hồi phía sàn để nước. Trong nhà mồ đặt những thứ cần thiết
cho một cuộc sống như: giỏ cơm, quần áo, chăn, đệm. Sau khi đưa đám trở về nhà,
người ta thường khua cối giã gạo để xua ma không quấy phá gia đình.
Nhà
cửa:
Bản của người La Ha thường có khoảng chục nóc nhà. Đồng bào
ở nhà sàn, có hai cửa ra vào với thang lên xuống tại hai đầu nhà. Một cửa vào
chỗ để tiếp khách và một cửa vào chỗ dành cho sinh hoạt nội bộ gia đình.
Nhà sàn cấu trúc theo 2 kiểu:
Kiểu ở tạm từ 1 đến 3 năm của những nhóm sống du canh du
cư. Loại nhà này hai đầu hồi mái nhà lượn tròn theo bầu dục, dài ra hai bên như
hình hàm lợn...
Kiểu nhà ở lâu năm của những nhóm cư dân sống bán định cư,
bán định canh hoặc định canh định cư. Loại nhà này hai đầu hồi mái tròn khum
hình mai rùa giống kiểu nhà người Thái Ðen.
Bố cục trong nhà chia làm hai phần, phần để tiếp khách rộng
từ 1/2 đến 2/3 diện tích nhà. Ngăn giữa phần chủ và khách là một cột buộc hũ rượu
cần bên cạnh.
Trang phục:
Người La Ha không dệt vải, chỉ trồng bông và đem bông trao
đổi với người Thái lấy vải mặc, nên mặc giống người Thái đen.
Trước kia đàn ông búi tóc sau gáy nhưng đến nay chỉ còn vài
cụ già và thầy cúng giữ tục này. Ðàn bà nhuộm răng đen, mặc giống người Thái
Ðen. Một số nơi còn đeo thêm tạp dề ở phần váy trước hoặc khoác trên lưng khi
rét. Phụ nữ chưa chồng búi tóc sau gáy, có chồng búi tóc trên đỉnh đầu giống
người Thái Ðen. Có nơi từ em bé gái đến bà cụ già chỉ có một cách búi duy nhất
là trên đỉnh đầu hoặc do ảnh hưởng của người Thái Trắng chỉ vấn tóc trần hoặc
búi tóc sau gáy không phân biệt có chồng hay chưa.
Ăn:
Lương thực chính là gạo nếp chế biến theo cách đồ thành
xôi, nay chuyển sang ăn cơm tẻ. Thực phẩm thường được ướp chua, nướng, lùi hoặc
sấy khô để dành. Phụ nữ ăn trầu.
Phương tiện vận chuyển:
Gùi, trâu kéo, ngựa thồ.
Thờ cúng:
Người La Ha thờ tổ tiên trong gian nhà "hóng" như
của người Thái.
- Thầy cúng một lao cúng gọi hồn và đuổi tà ma. Hàng năm hoặc
2-3 năm một lần một lao làm lễ cúng tổ tiên của mình của mình và các vị thần
linh khác. Trong số các vị thần linh khác. Trong số các vị thần ấy "thần
dương vật" (linga) và "thần cung kiếm" là đáng sợ hơn cả. Bởi vậy,
bàn thờ của một lao bao giờ cũng có hình nộm dương vật, kiếm và cái mộc.
Kiêng đem rau xanh, lá xanh, vật màu xanh và thịt sống vào
cửa bên ở gia đình, mà phải mang những thứ đó vào cửa của bên khách. Khi đặt nồi,
chảo lên bếp phải đặt hai quai theo hướng nằm ngủ của người trong gia đình,
kiêng không để quai nồi, chảo theo hướng của 2 cửa ra vào vì đó là hướng đặt
người chết trước khi đem chôn. Khi có người chết, tất cả những điều kiêng kỵ
trên đều huỷ bỏ và làm ngược lại.
Lịch: Theo lịch
của người Thái.
Học: Người La Ha
trước kia học chữ Thái.
Văn nghệ:
Người La Ha hát, làm thơ bằng tiếng Thái khá thạo. Hai điệu
múa đặc trưng là múa dương vật (linga) và múa cung kiếm.
Huyền Trang (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét