Việt
Nam có 54 dân tộc anh em là một trong những đất nước
có nền văn hoá
phong phú và đa dạng. Mỗi miền, mỗi dân tộc đều
có bản sắc riêng,
văn hoá riêng. Cuộc sống của họ khác nhau, đời sống tâm linh khác nhau hay tập
tục thói quen khác nhau đã tạo nên những nét khác biệt cho mỗi dân tộc. Nhưng
không vì thế mà làm mất đi tình đoàn kết của dân tộc Việt Nam, ngược lại nó còn
làm nên một dân tộc đa văn hoá, giàu truyền thống.
Bản sắc của mỗi dân tộc được
thể hiện rõ trong lối ăn, cách ở của đồng bào dân tộc nhưng có lễ dễ nhận biết
nhất chính là qua trang phục của họ. Mỗi dân tộc đều có một trang phục riêng
mang đậm nét văn hoá mỗi vùng miền và không lẫn với bất cứ nơi đâu. Đây cũng
chính là giá trị khác biệt mà cũng là giá trị văn hoá vô giá mà chúng ta cần
gìn giữ. Một trong những dân tộc mà trang phục của họ được biết đến khá nhiều
qua những chiếc khăn piêu, váy đen, váy đỏ. Đó chính là dân tộc Thái, mà đặc biệt
là trang phục của phụ nữ Thái. Trang phục phụ nữ không chỉ phản ánh trình độ
phát triển kinh tế - xã hội mà còn thể hiện tập quán, nếp sống, trình độ thẩm mỹ
và văn hoá các dân tộc. Trang phục của người phụ nữ Thái là niềm tự hào không
chỉ của riêng người Thái mà còn là một nét văn hóa rất đặc sắc trong kho tàng
văn hoá vật thể của dân tộc.
I: Sự hình thành và phát triển của dân tộc
Thái-Trang phục
1. Lịch sử phát triển: Dân tộc Thái di cư đến Việt
Nam trong thời gian từ thế kỉ 7 đến thế kỉ 13.
Theo sách sử Việt Nam, vào thời Lý, đạo Đà Giang,
man Ngưu Hống (tức người Thái) đến từ Vân Nam, đã triều cống lần đầu tiên vào
năm 1067. Trong thế kỷ 13, người Ngưu Hống kết hợp với người Ai Lao chống lại
nhà Trần và bị đánh bại năm 1280, lãnh tụ Trịnh Giác Mật đầu hàng, xứ Ngưu Hống
bị đặt dưới quyền quản trị trực tiếp của quan quân nhà Trần. Năm 1337 lãnh tụ
Xa Phần bị giết chết sau một cuộc xung đột, xứ Ngưu Hống bị sát nhập vào lãnh
thổ Đại Việt và đổi tên thành Mương Lễ, hay Ninh Viễn (Lai Châu ngày nay) và
giao cho họ Đèo cai quản. Năm 1431 lãnh tụ Đèo Cát Hãn, dân tộc Thái Trắng tại
Mương Lễ, nổi lên chống triều đình, chiếm hai lộ Qui Hóa (Lào Cai) và Gia Hưng
(giữa sông Mã và sông Đà), tấn công Mương Mỗi (Sơn La) Đèo Mạnh Vương (con của
Đèo Cát Hãn) làm tri châu. Năm 1466, lãnh thổ của người Thái được tổ chức lại
thành vùng (thừa tuyên) Hưng Hóa, gồm 3 phủ : An Tây (tức Phục Lễ), Gia
Hưng và Qui Hóa, 4 huyện và 17 châu. Những lãnh tụ Thái được gọi là phụ đạo, được
phép cai quản một số lãnh địa và trở thành giai cấp quí tộc của vùng đó, như dòng
họ Đèo cai quản các châu Lai, Chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nham; dòng họ Cầm các
châu Phù Hoa, Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Luân, Ninh Biên; dòng họ Xa cai quản
châu Mộc ; dòng họ Hà cai quản châu Mai, dòng họ Bạc ở châu Thuận ; họ
Hoàng ở châu Việt... Năm 1841, trước sự đe dọa của người Xiêm La, triều đình
nhà Nguyễn kết hợp ba châu Ninh Biên, Tuần Giáo và Lai Châu bên bờ tả ngạn sông
Mekong thành phủ Điện Biên. Năm 1880, phó lãnh sự Auguste Pavie nhân danh triều
đình Việt Nam phong cho Đèo Văn Trí chức tri phủ cha truyền con nối tại Điện
Biên; sau khi giúp người Pháp xác định khu vực biên giới giữa Việt Nam với
Trung Quốc và Lào, Đèo Văn Trí được cử làm quan đạo Lai Châu, cai quản một lãnh
thổ rộng lớn từ Điện Biên đến Phong Thổ, còn gọi là xứ Thái. Tháng 3-1948, lãnh
thổ này được Pháp tổ chức lại thành Liên bang Thái tự trị, qui tụ tất cả các sắc
tộc nói tiếng Thái chống lại Việt Minh.
Thiếu nữ Thái Đen
2. Dân cư Tại Việt Nam, dân tộc Thái có số dân là 1.000.000 người, cư trú tập trung tại các tỉnh Lai Châu,
Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An. Người Thái sử dụng các họ chủ yếu như: Bạc,
Bế, Bua, Bun, Cà (Hà, Kha, Mào, Sa), Cầm, Chẩu, Chiêu, Đèo, Điều, Hà, Hoàng, Khằm
Leo, Lèo, Lềm (Lâm, Lịm), Lý, Lò (Lô, La), Lộc, Lự, Lượng (Lương), Manh, Mè,
Nam, Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, Phìa, Quàng (Hoàng, Vàng),
Quảng, Sầm, Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo, Tòng (Toòng), Vang, Vì (Vi), Xa (Sa), Xin.
Nhóm Thái Trắng (Táy Đón hay Táy Khao) cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu và một số
huyện tỉnh Sơn La (Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên). Ở Đà Bắc thuộc Hà Sơn Bình,
có nhóm tự nhận là Táy Đón, được gọi là Thổ. Ở vùng Văn Bàn, Dương Quỳ thuộc tỉnh
Hoàng Liên Sơn, có một số Thái Trắng chịu ảnh hưởng đậm của văn hóa Tày. Ở
Sapa, Bắc Hà, nhiều nhóm dân tộc Thái Trắng đã Tày hóa. Người Thái Trắng đã có
mặt dọc hữu ngạn sông Hồng và tỉnh Lai Châu từ thế kỷ 13 và làm chủ Mường Lay
thế kỷ 14, một bộ phận di cư xuống Đà Bắc (Hà Sơn Bình) và Thanh Hóa thế kỷ 15.
Có thuyết cho rằng họ là con cháu người Bạch Y ở Trung Quốc. Nhóm Thái Đen (Táy
Đăm) cư trú ở khu vực tỉnh Sơn La và 2 huyện Điện Biên, Tuần Giáo) của tỉnh Lai
Châu. Các nhóm Tày Thanh (Man Thanh), Tày Mười, Tày Khăng ở miền Tây Thanh Hóa,
Nghệ Tĩnh cũng mới từ mạn Tây Bắc chuyển xuống cách đây vài ba trăm năm và bị ảnh
hưởng bởi văn hóa và nhân chủng của cư dân địa phương và Lào. Nhóm Tày Thanh từ
Mường Thành (vùng Điện Biên) đi từ Lào vào Thanh Hóa và tới Nghệ Tĩnh định cư
cách đây hai, ba trăm năm, nhóm này gần gũi với nhóm Thái Yên Châu (Sơn La) và
chịu ảnh hưởng văn hóa Lào. Nhóm Thái Đỏ, gồm nhiều nhóm khác nhau cư trú chủ yếu
ở một số huyện như Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu (Hà Sơn Bình) và các huyện miền
núi Mường Khoòng (Thanh Hóa) và Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Con Cuông, Tương Dương (Nghệ
Tĩnh). Ngoài ra còn có chừng 20.000 người Thái gốc Việt Nam sinh sống tại nước
ngoài, chủ yếu là Pháp và Hoa Kỳ.
3. Ngôn ngữ dân tộc Thái nói các thứ tiếng thuộc
nhóm ngôn ngữ gốc Thái của hệ ngôn ngữ Thái-Kadai. Trong nhóm này có tiếng Thái
của dân tộc Thái Lan, tiếng Lào của người Lào, tiếng Shan ở Myanma và tiếng
Choang ở miền nam Trung Quốc. Tại Việt Nam, 8 sắc tộc thiểu số gồm Bố Y, Giáy,
Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày, Thái được xếp vào nhóm ngôn ngữ Thái.
4. Đặc điểm kinh tế dân
tộc Thái có nhiều
kinh nghiệm đắp phai, đào mương, dựng con, bắc máng lấy nước làm ruộng. Lúa nước
là nguồn lương thực chính, đặc biệt là lúa nếp. Dân tộc Thái cũng làm nương để
trồng lúa, hoa màu và nhiều thứ cây khác. Từng gia đình chăn nuôi gia súc, gia
cầm, đan lát, dệt vải, một số nơi làm đồ gốm... Sản phẩm nổi tiếng của người Thái
là vải thổ cẩm, với những hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ, bền đẹp.
Thiếu nữ Thái Trắng |
5. Hôn nhân dân tộc Thái có tục ở rể, vài năm
sau, khi đôi vợ chồng đã có con mới về ở bên nhà chồng, nhưng bây giờ hầu như
không có trừ vài trường hợp gia đình bên gái khó khăn quá.
6. Tục lệ ma chay dân
tộc Thái quan niệm
chết là tiếp tục "sống" ở thế giới bên kia. Vì vậy, đám ma là lễ tiễn
người chết về "mường trời".
7. Văn hóa dân gian Thần thoại, cổ tích, truyền
thuyết, truyện thơ, ca dao... là những vốn quý báu của văn học cổ truyền dân tộc Thái. Những tác phẩm thơ ca nổi tiếng của dân tộc Thái là: Xống chụ xon
xao, Khun Lú Nàng Ủa. Dân tộc Thái sớm có chữ viết nên nhiều vốn cổ (văn học,
luật lệ, dân ca) được ghi chép lại trên giấy bản và lá cây. Dân tộc Thái rất
thích ca hát, đặc biệt là khăp. khắp là lối ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có
thể đệm đàn và múa. Nhiều điệu múa như múa xòe, múa sạp đã được trình diễn trên
sân khấu trong và ngoài nước, hấp dẫn đông đảo khán giả. Hạn khuống, ném còn là
hai đặc trưng văn hóa nổi tiếng của dân tộc Thái.
8. Nhà cửa Nhà dân tộc Thái trắng có khá nhiều điểm
gần với nhà Tày-Nùng. Còn nhà người Thái Đen lại gần với kiểu nhà của các cư
dân Môn-Khmer. Tuy vậy, nhà dân tộc Thái Đen lại có những đặc trưng không có ở
nhà của cư dân Môn-Khmer: nhà người Thái Đen nóc hình mai rùa, chỏm đầu đốc có
khau cút với nhiều kiểu khác nhau. Hai gian hồi để trống và có lan can bao
quanh. Khung cửa ra vào và cửa sổ có nhiều hình thức trang trí khác nhau. Bộ
khung nhà Thái có hai kiểu cơ bản là khứ tháng và khay điêng. Vì khay điêng là
vì khứ kháng được mở rộng bằng cách thêm hai cột nữa. Kiểu vì này dần gần lại với
kiểu vì nhà người Tày-Nùng. Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà dân tộc
Thái Đen khá độc đáo: các gian đều có tên riêng. Trên mặt sàn được chia thành
hai phần: một phần dành làm nơi ngủ của các thành viên trong gia đình, một nửa
dành cho bếp và còn là nơi để tiếp khách nam.
9. Trang phục Có nhiều nhóm địa phương với những
phong cách trang phục khác nhau.
9.1 Trang phục nam Thường nhật, trong sinh hoạt và
lao động, nam giới dân tộc Thái mặc áo cánh ngắn, xẻ ngực,
quần xẻ dũng. Áo là loại cổ tròn, không cầu vai, hai túi dưới và trước cài cúc
vải hoặc xương. Đặc điểm của áo cánh nam giới dân tộc Thái khu Tây Bắc không phải
là lối cắt may (vì cơ bản giống ngắn nam Tày, Nùng, Kinh...) mà là ở màu sắc đa
dạng của loại vải cổ truyền của cộng đồng sáng tạo nên: không chỉ có màu chàm,
trắng mà còn có màu cà phê sữa, hay dật các vuông bằng các sợi màu đỏ, xanh, cà
phê... Trong các ngày lễ, tết, họ mặc loại áo dài xẻ nách phải màu chàm, đầu quấn
khăn, chân đi guốc. Trong tang lễ họ mặc nhiều loại áo sặc sỡ, tương phản màu sắc
với ngày thường với lối cắt may dài, thụng, không lượn nách với các loại: xẻ ngực,
xẻ nách, chui đầu.
9.2 Trang phục nữ giới.
Trang phục nữ Thái chia làm 2 loại phân biệt khá rõ
theo hai hệ Thái Tây Bắc là Thái trắng (Táy khao) và Thái đen (Táy
đăm):
- Thái trắng: Thường nhật, phụ nữ dân tộc Thái trắng
mặc áo cánh ngắn (xửa cóm), váy màu đen không trang trí hoa văn. Áo thường là
màu sáng, trắng, cài cúc bạc tạo hình bướm, ve, ong... Cái khác xửa cóm Thái
đen là cổ áo hình chữ V. Thân áo ngắn hơn áo cánh người Kinh, tạo dáng ôm chặt
lấy thân, khi mặc cho vào trong cạp váy. Váy là loại váy kín (ống), màu đen,
phía trong gấu đáp vải đỏ. Khi mặc xửa cóm và váy chị em còn tấm choàng ra
ngoài được trang trí nhiều màu. Khăn đội đầu không có hoa văn mà chỉ là băng vải
chàm dài trên dưới 2 mét... Trong các dịp lễ tết họ mặc áo dài màu đen. Đây là
loại áo dàu thụng thân thẳng, không lượn nách, được trang trí bằng vải "khít"
ở giữa thân có tua vải phủ từ vai xuống ngực, nách áo trang trí theo lối đáp
hai mảng hoa văn trong bố cục hình tam giác. Phụ nữ chưa chồng búi tóc sau gáy,
có chồng búi trên đỉnh đầu. Họ có loại nón rộng vành.
- Thái đen: Phụ nữ Thái đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối (chàm hoặc đen), cổ áo khác
Thái trắng là loại cổ tròn, đứng. Đầu đội khăn "piêu" thêu hoa văn
nhiều mô-típ trang tri mang phong cách từng mường. Váy là loại giống phụ nữ
Thái trắng đã nói ở trên. Lối để tóc có chồng và chưa chồng cũng giống hệ Thái trắng.
Trong lễ, tết áo dài Thái đen đa dạng với các loại xẻ nách, chui đầu, trang trí
phong phú đa dạng về màu và màu mà mô-típ hơn Thái trắng.
II: Vẻ đẹp tiền ẩn trong trang phục Thái.
Một số nét văn hoá tiêu biểu của dân tộc Thái một cộng đồng đông nhất ở Sơn La, chiếm 54% dân số. Tiếng Thái thuộc nhóm ngôn
ngữ Thái - Tày. Dân tộc Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, đào mương, dựng cọn,
bắc máng lấy nước làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt là lúa
nếp. Dân tộc Thái cũng làm nương để trồng lúa, hoa mầu và nhiều thứ cây khác.
Các gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, dệt vải, một số nơi làm đồ gốm"Sản
phẩm nổi tiếng của dân tộc Thái là vải thổ cẩm, với những hoa văn đặc sắc, màu
sắc tươi hài hoà, bền đẹp. Mấy chục năm gần đây, nam giới người Thái mặc Âu phục
khá phổ biến, nhưng phụ nữ vấn gắn bó với bộ áo, váy, khăn cùng lối trang sức
theo truyền thống dân tộc, dân tộc Thái ở nhà sàn, mỗi bản thường có khoảng
40-50 nóc nhà kề bên nhau. Dân tộc Thái Ðen thường tạo dáng mái nhà hình mai
rùa, trang trí trên hai đầu nóc nhà bằng những khau cút được làm theo phong tục
từ xưa truyền lại. Dân tộc Thái có tục ở rể, vài năm sau, khi đôi vợ chồng đã
có con mới về ở bên nhà chồng. Ðồng bào quan niệm, chết là tiếp tục "sống"
ở thế giới bên kia. Vì vậy, đám ma là lễ tiễn người chết về "mường trời".
Người Thái có nhiều họ, mỗi họ thường có những quy định kiêng kỵ khác nhau. Họ
Lò không ăn thịt chim Táng Lò. Họ Quàng kiêng con hổ. "Ðồng bào Thái thờ
cúng tổ tiên, cúng trời đất, cúng bản mường. Gắn liền với sản xuất là những lễ
nghi cầu mùa. Mở đầu hàng năm bằng lễ đón tiếng sấm năm mới. Thần thoại, cổ
tích, truyền thuyết, truyện thơ, ca dao..là những vốn quý báu của văn học cổ
truyền người Thái. Những tác phẩm thơ ca nổi tiếng của đồng bào Thái là "Xống
chụ xon xao", "Khu Lú, Nàng ủa. Dân tộc Thái sớm có chữ viết. Ðồng
bào rất thích ca hát, đặc biệt là khắp. Khắp là lối ngâm thơ hoặc hát theo lời
thơ, có thể đệm dàn và múa. Nhiều điệu múa như múa xoè, múa sạp đã được trình
diễn trên sân khấu trong và ngoài nước, hấp dẫn đông đảo khán giả. Cơm Lam -
món ăn của dân tộc Thái Tây Bắc Ai đã từng đặt chân lên Sơn La, được thưởng thức
món cơm Lam dù chỉ một lần, sẽ cảm nhận được cuộc sống, văn hoá và hương vị của
núi, rừng Tây Bắc. Món cơm Lam được làm từ gạo nếp nấu trong ống tre, tiếng
Thái gọi là (Co má ngã) thân to khoảng cổ tay, các đốt dài từ 60-70 cm, cây
cao, vỏ dày, bên trong có lớp màng dai. Khi nấu cơm Lam, người ta thường chọn
cây non, chặt từng đốt, cho gạo nếp và nước vào ống, để khoảng 2-3 tiếng, dùng
lá dong làm nút, đem đốt trên đống lửa. Khi gạo chín, dùng dao sắc tước vỏ, cắt
từng khúc rồi ăn cùng chẳm chéo, muối vừng, hương của nếp nương, quyện cùng vị
đậm của vừng, vị ngọt của tre sẽ đọng lại trong ta những cảm giác khó quên. Ðây
là món ăn dễ làm, nguyên liệu sẵn có; người xưa thường dùng cơm Lam cho việc đi
nương rẫy, săn bắn lâu ngày trong rừng sâu, hoặc trong các cuộc vui, bên những
lời khắp, vòng xoè, người ta thường dựng ống Lam trên đống lửa... món cơm Lam
cũng được dùng là món ăn kiêng trong kỳ sinh nở của phụ nữ. Ngày nay, cơm Lam
khá phổ biến trong các nhà hàng, hàng bán ở chợ, thể hiện tập tục, nét văn hoá
truyền thống của người Thái vùng Tây Bắc. Nếu đến Sơn La, bạn hãy thưởng thức
cơm Lam với các món cá mương ( Pa pỉnh tộp) và nếm men rượu cần bạn sẽ có thêm
cảm nhận về Sơn La. Một số trò chơi dân gian đặc sắc của đồng bào dân tộc Thái
Hàng năm vào các dịp hội hè như hội đầu xuân, hội săn bắn, đánh cá tập thể, gắn
liền với các buổi lễ sinh hoạt cộng đồng, như lễ Xên mương, Xên bản, Xên hươn,
lễ "kim pảng"....Ðồng bào Thái thường tổ chức vui chơi ca hát, nhảy
múa tổ chức nhiều trò chơi dân gian. Thi ném còn: Thi ném còn qua vòng tròn
treo trên độ cao từ 10-20 mét; đứng cách từ 10-20 mét, nam, nữ tập trung 2 bên
tự do ném, ai ném trúng được thưởng (phần thưởng tuỳ theo sự thoả thuận giữa mọi
người khi tổ chức). Tung còn: Chủ yếu được tổ chức giữa nam, nữ thanh niên (
chưa vợ, chưa chồng).Trai gái chia hai bên, một bên là nữ, một bên là nam (số
lượng bất kỳ). Ban đầu hai bên sẽ tung còn qua lại, về sau người con trai sẽ
chú ý tung còn cho con gái nào mình thích. Nếu người con gái đó bắt quả còn một
cách nhiệt tình, tức là họ đã có ý chấp nhận cầu thân. Từ lúc đó cặp trai chỉ
tung còn cho nhau. Nếu ai để rơi còn, người bạn có quyền lấy một thứ gì đó như
khăn, đồ trang sức, khăn tay... Sau khi trò chơi kết thúc, hai người lại trao
trả lại cho nhau thứ đã lấy. Nếu buổi làm quen này có nhiều hứa hẹn, đó sẽ là một
tình yêu đẹp. Trò tó má lẹ Bước 1: Tó khấu luông- người chơi đứng ở vị trí cách
hàng má lẹ đội bạn một khoảng cách (tuỳ theo quy định, thường bằng hai bước
dài), đặt má lẹ lên điểm đầu gối giáp đùi, dùng ngón cái bật quả má lẹ sao cho
trúng má lẹ đội bạn bay đến đích hoặc quá đích (theo thoả thuận) coi như thắng
(gọi là oi). Trường hợp có thành viên đánh không oi thì thành viên đó có quyền "Sặm"
(đánh lại) một lần hoặc để thành viên trong đội "Sen" (đánh cứu). Bước
2: Tó khấu nọi, đội đánh cử một người đứng ở vạch qui định tung quả má lẹ về
phía hàng má lẹ đội bạn, má lẹ dừng ở điểm nào, lấy điểm đó làm điểm để đánh.
Người đánh sẽ ngồi sát vạch trên, ngồi xuống đặt má lẹ như "như tó khấu
luông" và cũng đánh như cách trên. Nếu không “oi” thì đánh như cách 1. Bước
3: Tó phá, từ vạch quy định, người đánh sẽ đặt má lẹ trên mu bàn chân (tuỳ chân
thuận), với hai bước chân của mình người đánh phải làm sao cho má lẹ bắn vào má
lẹ đội bạn cho "oi". Nếu không "oi", tiếp tục như tó khấu
luông. Bước 4: Tó lai lin (hay tó tháp), như bước 2, người đánh tung má lẹ đánh
dấu vạch đánh, sau đó đặt má lẹ xuống đất sát vạch đánh dùng má lẹ đội bạn sao
cho "oi", trường hợp không "oi" được tiến hành như bước một.
Ðội nào đã qua cả bốn bước là thắng một vòng và tiếp tục vòng hai. Trường hợp
không qua bước thứ mấy sẽ được ghi nhớ để đánh ở vòng sau, sau khi đội bạn không
qua. Trong trường hợp tung má lẹ để đánh dấu điểm đánh (tó khấu nọi và lai lin)
nếu nhỡ tung má lẹ qua hàng má lẹ đội bạn hoặc làm đổ má lẹ coi như bị thua ở
vòng đó và đội bạn có quyền đánh. Cuộc chơi cứ thế tiếp diễn. Đây là một trò chơi
tập thể, có tính đồng đội cao và đòi hỏi sự khéo léo, kiên trì và mạnh mẽ. Mỗi
dân tộc trên thế giới đều mang sắc thái văn hóa độc đáo của mình qua trang phục.
Cùng với ngôn ngữ, trang phục là dấu hiệu thông tin quan trọng thứ hai để chúng
ta dễ nhận biết tộc người này và tộc người khác mỗi khi dịp tiếp xúc.
I. Luận giải Thái trắng và Thái đen qua văn hóa của
họ Thư tịch của Trung Quốc như sách Man thư và Tân Đường thư trong phần mô tả về
người phương Nam Bách Việt ở vùng Vân Nam xưa, có đoạn ghi về người Man như
sau: "Ô Man Đông Thoán và bạch Man Tây Thoán" (ô là đen, bạch là trắng),
sự đen trắng này không phải ở da người mà ở trang phục - ô Man Đông Thoán là
người Man ở phía Đông có trang phục màu đen, còn bạch Man Tây Thoán là người
Man ở phía Tây có trang phục màu trắng. (Cần Trọng, Thái Tây Bắc Việt Nam, Nxb
khoa học xã hội, 1978, tr 210) Ở đây đều là người Man cả, nhưng người Man ở
phía Đông thì mặc trang phục màu đen, còn người Man ở phía Tây thì mặc trang phục
màu trắng. Tại sao như vậy? Đây là quan niệm về phạm trù lưỡng hợp âm dương
trong sinh học. Quan niệm này chi phối nhận thức trong đời sống của người
phương Nam - Bách Việt, cơ sở cho sự hình thành các cặp "đực cái" và
hiện vật lưỡng hợp - âm dương. Tư tưởng này, ngày nay vẫn còn thấy tiềm tàng, đậm
nét trong tâm thức của các cư dân sinh sống ở đây, song có sự đậm nhạt khác
nhau qua các hình thái biểu hiện văn hoá của từng dân tộc. Còn việc phân đôi
dân tộc thành hai ngành thì nay vẫn còn thấy trong trang phục của một số dân tộc
như người Mèo và đặc biệt là người Thái ở Tây Bắc. Vì thế, việc tìm hiểu người
Thái Trắng và người Thái Đen ở Tây Bắc là điều cần thiết. Tuy nhiên việc nghiên
cứu này là ở yếu tố văn hoá học, chứ không phải yếu tố dân tộc học. Dân tộc
Thái ở Tây Bắc, phân làm hai ngành Thái Trắng - Thái Đen. Đây là một vấn đề đặt
ra cho ngành Thái học của cả khu vực Đông Nam Á - nơi có người Thái sinh sống.
Song cho đến nay, vấn đề đó vẫn chưa thấy giả thuyết nào có sức thuyết phục.
Thiếu nữ dân tộc Thái Đen Thiếu nữ dân tộc Thái Trắng Theo tác giả CầmTrọng,
ngành Thái Trắng và ngành Thái Đen thuộc phạm vi cư trú rất rộng: ngành Thái Trắng
sang cả người Tày ở Việt Bắc, song nay họ đã là một cộng đồng riêng, nhưng vẫn
là bộ phận trong nhóm nói tiếng Thái thuộc ngành "Trắng". Ở đây chúng
tôi chỉ đề cập đến ngành Thái Trắng và ngành Thái Đen cư trú ở Tây Bắc nước ta.
Có ý cho rằng Thái Đen là nhóm người có nước da hơi đen và ngược lại, nhưng qua
trực quan, chúng tôi thấy không phải thế, và lâu nay cũng không thấy khoa Nhân
chủng học nói đến điều đó. Vì thế, việc có hai ngành Thái Trắng và Thái Đen ở
đây, không phải do vấn đề màu sắc sinh học, mà do tâm lý xã hội tạo nên. Chúng
tôi đã thẩm thức vấn đề này ở vùng Thái Tây Bắc từ năm 1958 và sau này, khi đang
chuẩn bị tư liệu cho cuốn sách "Văn hoá Nõ Nường" (sinh thực) qua những
cổ vật: tượng, phù điêu và hoa văn thổ cẩm biểu tượng "âm dương" của
người Kinh và người Thái thì thấy rằng việc có hai ngành: Thái Trắng, Thái Đen ở
dân tộc Thái, đó là sự phân chia một "nửa" của cha và một "nửa"
của mẹ, về những người con trong cùng một dân tộc. Tư tưởng ấy được người Thái
xưa ký thác lại trong ba biểu tượng sau đây: một là "quả trứng" tâm
linh, tiếng Thái gọi là "Xay mo" cùng hai hoa văn thổ cẩm khác là
"Xai Peng" (Tơ hồng) và "Kút Piêu" (ngọn lửa sự sống). Ba
biểu tượng này mô tả về chất "nguyên khí" của Po Me (Bố Mẹ) - chất đã
"sinh ra" con người - người Thái . Ba biểu tượng hoa văn đó được thêu
vào khăn Piêu để phụ nữ đội lên đầu cất giữ. Ngay từ thưở ban sơ, các dân tộc
nói chung và người Thái nói riêng đã đặt câu hỏi về nòi giống, gốc nguồn của
dân tộc mình: con người ở đâu mà ra, và quá trình sinh ra đó như thế nào? Trả lời
- Qua trực quan, họ thấy: Người Thái sinh ra từ hai chất "nguyên khí"
của Po Me (bố mẹ): chất của Po màu "trắng", chất của Me màu "đỏ".
Vậy phần của cha (Po) ký hiệu màu "trắng" Thái Trắng, trang phục màu
trắng – tóc để sau vai; phần của mẹ (Me) ký hiệu màu "đỏ" Thái Đỏ,
trang phục màu đỏ. Vậy ngành Thái Đỏ có trước, về sau ngành Thái Đỏ chuyển
thành ngành Thái Đen- phụ nữ Thái đen có chồng rồi tóc trên đầu tằng cẩu bới
ngược lên và trùm khăn Piêu. Sự phân định màu sắc về Thái Trắng, Thái Đen ấy,
ngày nay nhìn lại là phù hợp với người phương Đông, trong quan niệm về ngũ sắc
thì màu "đen" và các màu "sẫm" là thuộc tính
"Âm", còn màu "trắng" và các màu "sáng" là thuộc
tính "Dương". Theo tập tính của loài người thì giới mày râu (Po)
nghiêng về sức vóc cường tráng, còn giới đàn bà (Me) thuộc phái yếu, làm đẹp. Vậy
nên nhóm phần của mẹ - Thái Đen, phụ nữ được trưng diện thoả sức với các gam
màu sặc sỡ theo huyết khí của mẹ là màu đỏ, mà chiếc khăn "Piêu" đội
đầu của phụ nữ Thái Đen là một điển hình. Những hoa văn trên khăn
"Piêu" đội đầu của phụ nữ Thái đen, với ý nghĩa chịu trách nhiệm mang
tải những tư tưởng ban đầu của người Thái về việc sinh thành, phát triển và bảo
vệ từng thành viên của dân tộc. Còn phụ nữ ngành Thái Trắng tuy cũng là phái yếu,
thuộc diện làm đẹp, nhưng theo ký hiệu của cha (Po) mầu "trắng", cho
nên chỉ được trưng diện ở các gam màu "trắng" và "sáng",
không có gam màu sặc sỡ. Như vậy, việc Thái "Trắng" và Thái
"Đen" là thuộc phạm trù tâm thức, quan niệm về sinh học giống nòi,
còn sắc phục chỉ phần thứ yếu bên ngoài. Dù vậy cả hai ngành Thái đều cùng một
cội nguồn (cha mẹ) cho nên mỗi ngành đều giữ lại những kỷ vật màu sắc của ngành
kia. Hiện tượng ấy, người Trung Quốc gọi là cất giữ ngọc bội. Đó là việc ngành
Thái trắng vào những ngày cúng giỗ Tổ tiên người ta lại ăn vận đồ
"đen" và phụ nữ hàng ngày mặc áo ngắn (xửa cóm) thì nẹp viền cổ và lề
áo cũng phải màu "đen" rồi trên đó mới đơm hàng cúc bướm bạc, vì thế
ngạn ngữ có câu áo rách giữ lấy lề cho nên người ta lấy lề áo làm vật "ngọc
bội" là có dụng ý. Còn phụ nữ ngành Thái Đen thì trên lề áo đen cũng đơm
hàng cúc bướm bạc và đeo xà tích bằng bạc bên thắt lưng trái. Trong các dấu hiệu
về trao đổi màu sắc (ngọc bội) này của hai ngành Thái vừa nêu ở trên thì dấu hiệu
mặc áo đen trong dịp cúng lễ Tổ tiên của ngành Thái Trắng là có ý nghĩa hơn cả,
hoặc dùng "lề áo" màu đen, vòng qua cổ, rồi thõng xuống hai đường trước
ngực cũng là một biểu hiện có ý nghĩa. Ngoài ra việc ngành Thái Đen dùng mầu
"đen" và màu "trắng" để làm bao bì đóng gói quà biếu giữa
hai nhà thông gia, cũng là tín hiệu có sức thuyết phục cao. Ở ngành Thái Đen,
con gái đi lấy chồng, sau thời gian gia thất yên ổn, con cái đã lớn khôn, có tục
về tạ ơn cha mẹ đẻ. Lễ vật mang theo gồm: 5 sải vải trắng và 4 sải vải đen,
cùng 6 đồng và 4 hào bạc trắng. Phân thành các lễ: dùng một sải vải trắng gói 4
hào bạc biếu người làm mối, dùng 4 sải vải trắng gói 2 đồng bạc biếu bố vợ,
dùng 2 sải vải đen gói 2 đồng bạc biếu mẹ vợ và dùng 2 sải vải đen gói 2 đồng bạc
trả lại cho vợ chồng con đem về lại quả, bên gia đình nhà chồng Nghi thức dùng
màu sắc để đóng gói quà biếu ở đây là có dụng ý (chỉ diễn ra ở hai gia đình
thông gia - tức là tượng trưng cho: bên nửa của cha nhà "trai" và bên
nửa của mẹ nhà “gái”) gói vải màu "trắng" biếu cho "bố" vợ,
gói vải màu "đen" biếu cho "mẹ" vợ và gói quà của nhà
"gái" lại quả thì gói vào vải màu "đen", còn gói quà của
nhà "trai" biếu cho người làm mối thì gói vào tấm vải màu "trắng"
: ở đây mầu "trắng" thì bên nam (bố vợ, nhà trai), còn màu
"đen" thì bên nữ (mẹ vợ, nhà gái). Đó là những tín hiệu tự nó đã giải
mã cái tâm thức truyền kỳ về Thái Trắng "phần" của cha và Thái Đen
"phần" của mẹ ở người Thái cho hậu thế. Từ hai chất "nguyên
khí" của Po Me có mầu "trắng" và màu "đỏ" người xưa đã
lấy quả trứng gà cũng có hai mầu "trắng" - "đỏ" và nở thành
gà con, làm vật biểu tượng so sánh, đối chứng và được coi như quá trình thai
nghén của một hài nhi trong bụng mẹ- tức là "quả trứng tín ngưỡng" biểu
tượng về nguồn cội sinh thành ra người Thái. Cho nên quả trứng tâm linh được họ
tôn vinh thành "vật linh" thờ phụng mà việc phân đôi hai ngành Thái
Trắng và Thái Đen là điển hình cho việc tôn vinh, thờ phụng đó. Vì vậy, giới thầy
Mo trong nghề bói toán đã lấy quả trứng "tâm linh" (âm, dương) này để
làm lễ vật môi giới, thỉnh cầu đến đấng siêu nhiên, thánh thần, tổ tiên: thì điềm
lành, điềm dữ ứng nghiệm tức thì ở vỏ quả trứng, hoặc trứng đã ấp dở, còn non
thì đập vỡ quả trứng ra nhìn hai đường máu mà đoán định sự việc lành hay dữ,
trong nghề bói toán. Do đó, quả trứng tâm linh được người Thái trân trọng tôn
thờ cả trong tín ngưỡng và ngoài đời thường. Ngoài đời thường, trong bữa ăn
tươi, khi có khách, theo tục, trên mâm trước chỗ ngồi của chủ nhà, đặt chiếc
đĩa nhỏ đựng hai quả trứng, và hai cốc rượu hai bên. Lễ vật tưởng nhớ đến Tổ
tiên, gọi là "xay - Po Me đẳm" (trứng ông bà); vào bữa, chủ nhà khấn
mấy lời, rồi chủ khách mới nâng cốc chúc nhau. Cùng cần nói thêm: có thể ban đầu
chỉ có hai ngành: Thái Trắng và Thái Đỏ, theo trực quan qua mầu sắc
"nguyên khí" của Po Me, về sau, khi xác lập mầu trắng là Dương và mầu
đen là Âm thì nhóm Thái mầu Đỏ chuyển sang nhóm Thái màu Đen. Do đó mà có ngành
Thái Trắng và Thái Đen, nhưng nhóm Thái Đỏ vẫn còn tồn tại, song mờ nhạt dần.
Dân tộc Thái Đen. Ảnh - Tư liệu Như vậy, quả trứng "tâm linh" là
thành quả của cả quá trình tiên niệm trực quan, mà tư duy trực quan là thuộc về
thời tiền sử, mọi điều lớn lao đều được bắt đầu từ đó - từ cái phôi thai của một
sự sống của con người. Ở người Văn Lang – Giao Chỉ tâm thức phân đôi các con
trong cùng dân tộc được thể hiện trong văn hoá tâm linh, qua truyền thuyết Mẹ
Âu Cơ đẻ bọc trứng nở trăm người con: năm mươi người theo mẹ lên rừng, năm mươi
người theo cha xuống biển. Tư tưởng này được thể hiện trong các hình thái sinh
hoạt của đời sống văn hoá và phong tục tập quán, song ở đây chỉ nói riêng phần
màu sắc trang phục. Trang phục của người Kinh bao giờ cũng thể hiện theo hai phần
và hai màu. Đó là bộ áo "kép" của người đàn ông: trong áo trắng,
ngoài áo xanh lam, còn bộ áo "tứ thân" của phụ nữ thì "mớ
ba" "bớ bảy" và hai màu, hoặc phụ nữ miền Trung thì áo "vá
vai" nửa trên mầu trắng, nửa dưới màu nâu. Người miền Trung ngày nay (như ở
QuangTrị), chúng tôi thấy, khi ra khỏi nhà đi chợ, đi làm, đều mặc hai áo cộc
(kép) - hai áo kiểu như nhau, chỉ khác là áo trong cài cúc, áo ngoài để hở. Hồ
Chủ tịch có bức ảnh hai áo đại cán (chiếc mặc trong, chiếc khoác ngoài) là từ
tâm thức áo "kép" này của dân tộc. Như vậy tư tưởng phân đôi "phần"
của cha và "phần" của mẹ - những người con trong cùng một dân tộc,
thành hai ngành kí hiệu trang phuc, "trắng" "đen" chỉ còn lại
trong dân tộc Thái ở Tây Bắc Việt nam. Còn tư tưởng này ở người phương Nam Bách
Việt nay chỉ tiềm tàng, sâu sắc trong tư tưởng phân đôi Âm Dương mà thôi, được
thể hiện trong ý niệm và các hình thái phong tục tập quán v.v... Ở đây, việc
dùng trang phục hai màu thì hầu như là tập tục của nhân loại, phải chăng cũng
được bắt nguồn từ tư tưởng phân đôi phần của cha và phần của mẹ những người con
trong cùng dân tộc? Vì tư tưởng "âm dương" là của nhân loại là cái
mách bảo cho nhân loại biết về "âm dương" là chất "nguyên khí"
của sinh thực. Tóm lại, tư tưởng phân đôi "phần" của cha và "phần"
của mẹ - những người con trong cùng một dân tộc, thành hai ngành kí hiệu trang
phục, "trắng" "đen" "Âm" "Dương". Đó là
tư tưởng chủ đạo của người phương Nam Bách Việt, trung tâm là người Văn Lang
Giao Chỉ. Tư tưởng này chi phối toàn bộ phong tuc tập quán sinh hoạt đời sống của
xã hội: từ đồ dùng vật dụng, chúng đều mang tính “đực” "cái", như ở
người Kinh, ngay đôi phách gõ nhịp của ả đào trong Hát thờ cũng có ý phiếm chỉ
cái "âm" cái "dương" và âm nhạc thì tiếng trong, tiếng đục,
hoặc chiếc trống cũng trống đực, trống cái v.v... - nghĩa là, tư tưởng Âm
Dương, chủ đạo trong ý niệm và các hình thái hoạt động xã hội của người phương
Nam Bách Việt. Thiếu nữ Thái duyên dáng với chiếc khăn Piêu Piêu còn là vật
trang sức quan trọng của các cô gái Thái trong sinh hoạt hằng ngày, nhất là
trong lúc đi chơi hay dự lễ hội...
II. Nét đẹp trong trang phục phụ nữ Thái Mai Châu Dệt
thổ cẩm ở Bản Lác (Mai Châu - Hoà Bình). Trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, mỗi
dân tộc đều có những trang phục riêng đặc sắc và rất độc đáo. Trang phục phụ nữ
gắn bó mật thiết với cuộc sống, là dấu hiệu thông tin để nhận biết tộc người
sau ngôn ngữ. Nhìn trang phục phụ nữ là biết đó là người dân tộc nào, hiện đang
cư trú ở đâu. Trang phục phụ nữ không chỉ phản ánh trình độ phát triển kinh tế
- xã hội mà còn thể hiện tập quán, nếp sống, trình độ thẩm mỹ và văn hoá các
dân tộc, trong đó có trang phục của người phụ nữ Thái. Trang phục của người phụ
nữ Thái là niềm tự hào không chỉ của riêng người Thái mà còn là một nét văn hóa
rất đặc sắc trong kho tàng văn hoá vật thể của dân tộc. Từ lâu đời, người phụ nữ
dân tộc Thái ở Mai Châu (Hoà Bình) đã biết trồng bông, dệt vải, trồng dâu, nuôi
tằm để tự dệt lấy vải mặc, họ ý thức được rằng: "Gà đẹp nhờ bộ lông/ Người
đẹp nhờ quần áo". Để làm đẹp cho bộ trang phục của mình, người phụ nữ Thái
Mai Châu đã biết tìm cây tô mộc (cây phang) làm màu đỏ, cây chàm (hóm) làm màu
xanh và đen, củ nghệ (nghìn) làm màu vàng, đã biết cô đặc lá chàm qua nhiều
công đoạn phức tạp và kỹ thuật làm "chua" bằng lá trầu, nước chanh
cùng một số loại cây có chất keo làm bền sợi, sau đó mới đem nhuộm màu. Ngay từ
khi mới trưởng thành, phụ nữ Thái đã biết lo sắm cho mình cái nằm, cái mặc,
ngoài trang phục mặc hàng ngày.
Văn hóa Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét