Dân tộc La Ha có
tên tự gọi: La Ha, Klá, Phlạo. Họ còn được
gọi với một số tên khác nhau như: Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá
Táu Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống, Bủ Hà, Pụa. Với các nhóm địa
phương: La Ha cạn (Khlá Phlao), La Ha Nước (La Ha Củng).
Tiếng La Ha thuộc nhóm ngôn ngữ Kadai của hệ ngôn ngữ Tai-Kadai.
Người La Ha có mặt sớm ở miền Tây Bắc Việt Nam. Theo những
tài liệu chữ Thái cổ thì vào thế kỷ XI, XII khi người Thái Ðen thiên di tới
vùng đất này, họ đã gặp tổ tiên của người La Ha hiện nay. Chính vì vậy, khi làm
lễ cúng Mường, người Thái vẫn còn tục đặt cỗ “trâu trắng” để tế thần Im Poi – một thủ lĩnh nổi tiếng của người La
Ha vào đầu thế kỷ XI.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người La Ha ở
Việt Nam có dân số 8.177 người, cư trú tại 20 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố.
Tuyệt đại đa số người La Ha cư trú tập trung tại tỉnh Sơn La (8.107 người, chiếm
99,14% tổng số người La Ha tại Việt Nam). Ngoài ra người La Ha còn sinh sống tại
Hà Nội (thống kê được 13 người), Đắk Nông (12 người).
Múa khăn của đồng bào La Ha.
Người La Ha sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy theo lối du
canh, do đó việc hái lượm đóng vai trò quan trọng hơn so với săn bắn và đánh
cá. Ngày nay nhiều bản đã làm ruộng lúa nước. Người La Ha biết đắp bờ chống xói
mòn nương; có nơi đã biết dùng phân bón. Người La Ha thường nuôi heo, gà. Họ
cũng nuôi trâu, bò để cày kéo.
Người La Ha sống theo trưởng làng bản là Khun cai, hai người
giúp việc Khun cai là Khun tang, Khun téng do dân cử ra.
Trai gái La Ha được tự do tìm hiểu nhau, không bị cha mẹ ép
buộc cưới gả. Tuy nhiên việc cưới gả phải được cha mẹ ưng thuận. Để tỏ tình
chàng trai phải đến nhà cô gái và dùng sáo, nhị, lời hát trước khi trò chuyện
bình thường. Sau lễ dạm hỏi, nếu nhà gái không trả lại trầu do bà mối của nhà
trai đưa tới thì chàng trai tổ chức lễ xin ở rể. Chàng trai phải ở rể từ 4 đến
8 năm… Hết hạn đó, lễ cưới được tiến hành.
Sau lễ cưới này, cô dâu được đón về nhà chồng, đổi họ theo
họ chồng và không được quay về ở với bố mẹ đẻ nữa, dù chồng chết. Trường hợp
người đàn bà goá đi bước nữa, người chồng thứ hai mang lễ cưới nhỏ Thu Cơi Poọng (làm gà báo cưới) đến gia đình người
chồng thứ nhất chứ không cần có quan hệ gì với bố mẹ của người đàn bà goá. Người
đàn bà goá đi bước nữa vẫn quan niệm rằng khi chết đi, hồn lại tìm về với người
chồng chính thức đã làm lễ Thu Mà Phu. Vì vậy,
ở một số nơi, bố mẹ đã chết cả mà chưa làm được lễ cưới Thu Mà Phu thì con phải
làm lễ cưới đó cho bố mẹ để bố mẹ được sống với nhau ở thế giới bên kia.
Lễ “Dâng Hoa Măng”.
Gia đình người La Ha là gia đình nhỏ theo chế độ phụ hệ.
Không chỉ con cái mang họ cha mà vợ cũng phải mang họ chồng. Con gái không được
thừa kế tài sản.
Người La Ha không có tục đốt xác như người Thái Ðen mà đem
chôn. Người chết được đem chôn trong nhà mồ. Mái nhà mồ được lợp bằng tranh được
dỡ một phần của mái nhà ở mang ra. Trong nhà mồ đặt những thứ cần thiết cho một
cuộc sống như: giỏ cơm, quần áo, chăn, đệm. Sau khi đưa đám trở về nhà, người
ta thường khua cối giã gạo để xua ma không quấy phá gia đình.
Bản làng của người La Ha thường có khoảng chục nóc nhà. Người
La Ha ở nhà sàn, có hai cửa ra vào với thang lên xuống tại hai đầu nhà, một cửa
vào chỗ để tiếp khách và một cửa vào chỗ dành cho sinh hoạt trong gia đình.
Người La Ha không dệt vải, chỉ trồng bông và đem bông trao
đổi với người Thái lấy vải mặc. Do đó, trang phục của người La Ha giống trang
phục của người Thái đen. Trước kia đàn ông búi tóc sau gáy nhưng đến nay chỉ
còn vài cụ già và thầy cúng giữ tục này. Ðàn bà nhuộm răng đen, mặc giống người
Thái Ðen. Một số nơi còn đeo thêm tạp dề ở phần váy trước hoặc khoác trên lưng
khi rét. Phụ nữ chưa chồng búi tóc sau gáy, có chồng búi tóc trên đỉnh đầu giống
người Thái Ðen. Có nơi từ em bé gái đến bà cụ già chỉ có một cách búi duy nhất
là trên đỉnh đầu hoặc do ảnh hưởng của người Thái Trắng chỉ vấn tóc trần hoặc
búi tóc sau gáy không phân biệt có chồng hay chưa.
Sơn nam La Ha.
Người La Ha thờ tổ tiên trong gian nhà “Hóng” như của người Thái. Thầy cúng Một lao cúng gọi hồn
và đuổi tà ma. Hàng năm hoặc 2-3 năm một lần Một lao làm lễ cúng tổ tiên của
mình và các vị thần linh khác. Trong số các vị thần linh ấy, “Thần dương vật” (Linga) và “Thần cung kiếm” là đáng sợ hơn cả. Bởi vậy, bàn thờ của
Một lao bao giờ cũng có hình nộm dương vật, kiếm và cái mộc.
Trong lễ hội “Dâng Hoa Măng” (Pang A Nụn Ban) hàng năm, thày mo sẽ cầu khẩn các thần
linh để muông thú không phá hoại mùa màng, cúng con ma xó để nó không quấy rầy
sức khỏe dân làng… Phần lễ hội sẽ là những màn múa “Tăng Bu”,
một điệu múa độc đáo của đồng bào La Ha rộn ràng và mạnh mẽ, đạo cụ chỉ là 1 ống
tre trổ xuống tấm ván theo nhịp “chát chát”. Tiếp đến
là các điệu múa được kết tinh từ nền văn hóa nông nghiệp, những động tác múa khỏe
khoắn tượng trưng cho các hoạt động cày, bừa, cầu mưa, múa khăn, múa kiếm… Kết
thúc lễ hội là điệu múa “A Sừng Lừng” – một
điệu múa đặc sắc mang nét phồn thực ước muốn về sự phát triển, trường tồn của
giống nòi.
Người La Ha có bộ lịch chiếc xương sườn trâu, chiều dài 30
phân, rộng hai phân, cong theo hình chiếc lá, trên lịch ghi những kí hiệu cụ thể
để đoán định ngày xấu tốt, ngày cưới hỏi, làm nhà… được gia đình ông thầy cúng
Hoàng Văn Păn lưu giữ. Cả bộ lịch có mười đốt, mỗi đốt 3 vạch tuơng ứng với 30
ngày trong tháng. Theo ông Păn thì, ngày tốt trên bộ lịch ghi là ngày con Rồng,
vào ngày này có thể gieo lúa, làm nhà cưới vợ…
Sơn nữ La Ha.
Người La Ha hát, làm thơ bằng tiếng Thái khá thạo. Hai điệu
múa đặc trưng là Múa dương vật (Linga) và Múa cung kiếm.
Các lễ vật của mâm cúng chính tại nhà thầy lang.
Thầy Lang người chủ trì Lễ hội dân hoa măng của người La Ha, Sơn
La
Theo quan niện của người La ha (Sơn La), lễ hội dân hoa
măng phải được tổ chức tại nhà thầy lang. Thầy lang là người chủ trì và chuẩn bị
các thủ tục, các loại lễ vật cần để làm lễ cúng…
Lễ hội dâng hoa măng (Pang a nụn ban) của đồng bào dân tộc
người La Ha là để tỏ lòng cảm tạ, tri ân thầy lang có công vì sức khỏe cộng đồng,
tổng kết khả năng cứu chữa bệnh tật của thầy lang, rồi truyền lại cách thờ cúng
tổ tiên cho con cháu.
Theo thường lệ, lễ hội dâng hoa măng thường được tổ chức
vào dịp đầu năm mới, trước ngày rằm hàng tháng trong ba tháng mùa xuân, khi mà
công việc trên nương chưa nhiều, để con cháu, bà con bản dưới mường trên gặp
nhau giao lưu văn hóa, văn nghệ.
Thầy lang là người chủ trì và chuẩn bị các thủ tục, các loại
lễ vật cần để làm lễ cúng.
Theo quan niệm của người La ha, lễ hội phải được tổ chức tại
nhà thầy lang. Thầy lang là người chủ trì và chuẩn bị các thủ tục, các loại lễ
vật cần để làm lễ cúng. Lễ vật cúng thần linh gồm có các lâm thổ sản trong rừng
như các loại cây, củ, quả, măng tươi, hoa rừng trang trí cây nêu và các dụng cụ
cần thiết khác, nhưng nhất thiết không được thiếu cây móc, cây chuối rừng (để dựng
cây nêu cúng giữa nhà), măng đắng, gạo và trứng gà sống…
Bắt đầu vào cúng mời các thần, người phụ lễ thổi pí-sên
(sáo cúng) để hòa quyện với lời hát cúng, cho lời hát mau đến với các vị thần
che chở cho người La Ha. Cúng xong, thầy lang cho các con nuôi về dâng lễ, cúng
mời các vị thần che chở cho người La Ha trường tồn, để có được sức mạnh như: Thần
Hổ – Chúa Sơn Lâm thắng mọi dã thú, bảo vệ cuộc sống cho dân bản; Cúng con nhím
– thần đất để gây cảm tình, để nó không phá lúa, phải mời về ăn nó sẽ bảo vệ
thành quả lao động của mình, sống lâu, vững chắc như tảng đá lớn; Cúng con chim
cu gáy – thần của các loài chim hay ăn lúa trên nương để bảo vệ lúa nương cho
mình. Cuối cùng là cúng con ma cang cói, để nó không quấy rầy sức khỏe nhân
dân.
Thầy lang biểu diễn các trò mà ông đã chữa khỏi cho “bệnh
nhân”.
Cúng các thần xong, thầy lang biểu diễn các trò mà ông đã
chữa khỏi cho “bệnh nhân”. Ông giả làm người bị bướu cổ khi buộc cái bát ăn cơm
vào cổ mình. Ông diễn các trò làm người què chân, người ngớ ngẩn, hình ảnh người
đi coi nương vung cây sào, hú đuổi lũ chim, sóc cút khỏi nương nhà. Cuối cùng
là trò giả làm con khỉ, ông bò quanh cây móc giữa nhà, vừa bò, vừa kêu chí
chóe, mắt đảo nhìn rất nhanh, để tìm hoa, ngô, chuối lộc ở cây móc, lúc thì gãi
tai, gãi bụng, lúc thì nhảy nhót, chộp lấy bắp ngô. Một tiếng súng nổ, ông giả
lăn đùng ra chết, nhiều tiếng cười vang khen người thiện xạ.
Điệu múa A Sừng Lừng độc đáo.
Khi màn độc diễn của thầy lang kết thúc, dân bản vào ngay
màn múa “Tăng Bu”, đạo cụ chỉ là 1 ống tre trổ xuống tấm ván
theo nhịp “chát chát”, tay lúc vung ra sau, khi thì 2 tay cầm ống
tre nghiêng sang bên trái, nghiêng sang bên phải, múa say sưa, phụ nữ múa mềm dẻo,
khỏe khoắn, linh hoạt. Sau Tăng Bu, là các điệu Múa khăn – dùng các động tác múa khỏe khoắn thể
hiện sức khỏe của trai gái trong bản, minh họa bằng các điệu múa tăng gia sản
xuất như cày bừa, cầu mưa; các màn múa trống, múa kiếm, thể hiện tinh thần thượng
võ, đồng thời kết hợp với chữa trị bách bệnh cho bà con dân bản, xua đuổi các
loại thú rừng phá hoại mùa màng. Cuối cùng là điệu múa “A Sừng Lừng” một điệu múa độc đáo mang nét văn hóa phồn
thực.
Ngày nay, lễ hội Dâng Hoa Măng vẫn
được đồng bào dân tộc La Ha bảo tồn, lưu truyền và phát triển, tuy còn một số mặt
hạn chế, nhưng vẫn thể hiện được những nét phong tục, văn hóa, tín ngưỡng đặc sắc
của người La Ha.
Thày mo làm lễ cúng thần linh.
Người La Ha làm lễ hội tạ ơn thầy lang
Hàng năm người La Ha tổ chức Lễ hội tạ ơn thầy lang nhằm tỏ
lòng cảm tạ, tri ân thầy lang đã có công cứu, chữa bệnh tật cho bà con.
Lễ hội tạ ơn thầy lang được tổ chức vào trước ngày Rằm hàng
tháng trong 3 tháng mùa xuân với sự tham gia tự nguyện của người bệnh được thầy
lang chữa khỏi. Ngày khai lễ hội do thầy lang quyết định. Thầy lang là người chủ
trì chuẩn bị về thủ tục, chuẩn bị các loại con vật, hoa rừng trang trí và các dụng
cụ cần thiết khác, để tổ chức tại nhà thầy lang.
Khi đã cúng xong, thầy lang cho các con nuôi về dâng lễ,
cúng mời các vị thần mà dân tộc La Ha che chở cho người La Ha trường tồn, để có
được sức mạnh như Thần Hổ – chúa sơn lâm thắng mọi dã thú, bảo vệ cuộc sống cho
dân bản. Cúng các thần xong, thầy lang biểu diễn các trò mà ông đã chữa khỏi
cho “bệnh nhân”… Ông giả làm người bị bướu cổ khi buộc cái bát ăn cơm vào cổ
mình. Ông diễn các trò làm người què chân, người ngớ ngẩn, hình ảnh người đi
coi nương vung cây sào, hú đuổi lũ chim, sóc cút khỏi nương nhà. Cuối cùng là
trò giả làm con khỉ (tô rôốc), ông bò quanh cây móc giữa nhà, vừa bò, vừa kêu
chí chóe, mắt đảo nhìn rất nhanh, để tìm hoa, ngô, chuối lộc ở cây móc, lúc thì
gãi tai, gãi bụng, lúc thì nhảy nhót, chộp lấy bắp ngô. Một tiếng súng nổ, ông
giả lăn đùng ra chết, nhiều tiếng cười vang khen người thiện xạ…
Thày mo đóng giả làm con khỉ trong lễ hội.
Khi màn độc diễn của thầy lang kết thúc, dân bản vào ngay
màn múa “tăng bu”, một điệu múa độc đáo của người La Ha, rộn ràng mạnh mẽ, đạo
cụ chỉ là 1 ống tre trổ xuống tấm ván theo nhịp “chát chát”, tay lúc vung ra
sau, khi thì 2 tay cầm ống tre nghiêng sang bên trái, nghiêng sang bên phải,
múa say sưa, đặc biệt phụ nữ múa rất mềm dẻo, khỏe khoắn, linh hoạt.
Sau tăng bu, là các điệu múa cày bừa, cầu mưa, múa khăn,
múa kiếm, múa trống. Cuối cùng là điệu múa “A sừng lừng”, một điệu múa độc đáo ở
miền núi nhiều nơi, tuy về hình thức có vẻ phàm tục, nhưng lại xuất phát từ thực
tiễn cuộc sống quá nghèo thuở xưa, nạn hữu sinh vô dưỡng rất phổ biến, người La
Ha nghĩ ra phải thờ “dương vật” để hy vọng người La Ha con đàn cháu đống, mẹ
tròn con vuông.
Lễ hội được tổ chức trước tiên là để tỏ lòng cảm tạ, tri ân
thầy lang có công vì sức khỏe cộng đồng, thứ đến là “tổng kết” khả năng cứu chữa
bệnh tật của thầy lang, rồi là truyền lại cách thờ cúng tổ tiên cho con cháu. Lễ
hội còn là dịp đầu xuân năm mới, việc trên nương chưa nhiều, việc dưới ruộng
không có, để con cháu, bà con bản dưới mường trên gặp nhau giao lưu văn hóa,
văn nghệ, cùng nhau gìn giữ vốn văn hóa dân tộc, và tiếp nhận nền văn hóa các
dân tộc anh em khác trên địa bàn.
Lịch xương trâu của dân tộc La Ha.
Cách tính ngày tốt, xấu độc đáo của người La Ha cổ
Nhắc đến cộng đồng La Ha cổ, người ta nghĩ ngay đến bộ lịch
bằng xương trâu, nhờ loại lịch này, họ có thể tính được ngày tốt, xấu và đặc biệt
là biết được sự thay đổi thời tiết để điều chỉnh công việc cho phù hợp…
Dân tộc La Ha còn được gọi với một số tên khác nhau như:
Klá, Phlạo, Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống, Bủ Hà, Pụa.
Đồng bào La Ha hiện nay còn khoảng 6.000 người, cư trú chủ yếu ở địa bàn các
huyện Than Uyên (Lai Châu) và Thuận Châu, Mường La (Sơn La).
Người La Ha có mặt sớm ở miền Tây Bắc nước ta. Theo những
tài liệu chữ Thái cổ thì vào thế kỷ XI, XII khi người Thái Ðen thiên di tới
vùng đất này, họ đã gặp tổ tiên của người La Ha hiện nay. Chính vì vậy, khi làm
lễ cúng Mường, người Thái vẫn còn tục đặt cỗ “trâu trắng” để tế thần ¡m Poi – một
thủ lĩnh nổi tiếng của người La Ha vào đầu thế kỷ XI.
Nhắc đến cộng đồng La Ha là người ta nghĩ ngay đến bộ lịch
bằng xương trâu độc đáo. Nó được coi như một phần “gia phả” của người La Ha. Bộ
lịch là chiếc xương sườn trâu, chiều dài 30 phân, rộng hai phân, cong theo hình
chiếc lá, trên lịch ghi những kí hiệu cụ thể để đoán định ngày xấu tốt, ngày cưới
hỏi, làm nhà…
Truyền thuyết của người La Ha kể rằng, ngày xưa, họ có một
quyển sách xem ngày tháng nhưng bị một con trâu vô tình ăn mất. Từ đó, công việc
và cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn do không phân biệt được ngày tốt, xấu.
Người La Ha liền mổ con trâu kia để lấy lại quyển sách,
nhưng không thấy nên quyết định lấy chiếc xương sườn của nó để khắc lịch. Nhờ
loại lịch này, họ có thể tính được ngày tốt, xấu và đặc biệt là biết được sự
thay đổi thời tiết để điều chỉnh công việc cho phù hợp.
Trên mỗi xương sườn trâu, người La Ha khắc 30 vạch tương ứng
với 30 ngày trong tháng và các ký hiệu với nghĩa tốt, xấu khác nhau. Theo người
La Ha ngày tốt trên bộ lịch ghi là ngày con Rồng, vào ngày này có thể gieo lúa,
làm nhà cưới vợ… Lịch xương trâu gắn bó mật thiết với đời sống của người La Ha
và được xem như một tài sản quý.
Dù khó xem nhưng lịch bằng xương trâu trước kia rất phổ biến
trong cộng đồng người La Ha. Vậy nhưng hiện nay, loại lịch này đã trở thành vật
hiếm và hiện chỉ còn duy nhất một quyển được cất giữ trong bảo tàng, số người
La Ha biết xem lịch cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Vì lịch rất quý, người
ta bí mật cách xem nên ngày nay gần như thất truyền.
Đồng bạc dùng khi bị phạt vạ nếu bỏ nhau.
Nơi vợ chồng không dám bỏ nhau
Vợ bỏ chồng sẽ bị nhà chồng phạt vạ 3 con trâu, chồng bỏ vợ
sẽ phải đền “tuổi thanh xuân” cho vợ bằng 3 lạng đồng bạc.
Còn nếu người chồng đi ngoại tình bị phát hiện sẽ phải đeo
hai thanh gỗ vào cổ, đi khắp các bản hô to: “Tôi ngoại tình”…
Ngược lại, người vợ đi ngoại tình, chồng bắt được, anh em
nhà vợ phải mua rượu cần, lợn bản sắm sửa mâm cơm sang xin lỗi bố mẹ chồng và
chồng thay cho người đi ngoại tình.
Phạt nặng tội ngoại tình
Trong quan niệm của người La Ha (xã Nậm Ét, huyện Quỳnh
Nhai, Sơn La), vợ chồng sống với nhau phải chung thủy, cấm kị việc “vợ nọ, con
kia”. Tuyệt đối cấm anh em ruột, họ hàng lấy nhau.
Phụ nữ dân tộc La Ha bên bếp lửa.
Nhắc tới chuyện bỏ nhau, người La Ha coi đó như một nỗi sợ.
Vì ai bỏ ai cũng đều bị phạt vạ hết sức nặng.
Vợ mà bỏ chồng trước, gia đình nhà chồng sẽ sang tận nhà vợ
phạt vạ ba con trâu. Thời gian công sức người con trai đi ở rể được ước định bằng
giá trị của ba con trâu.
Nhà nào có trâu thì phải trả bằng trâu, nhà nào không có
trâu thì phải trả bằng tiền, khi xưa là bạc trắng. Ngược lại, khi người chồng bỏ
vợ, gia đình vợ sang phạt vạ ba lạng đồng bạc
Vợ chồng bỏ nhau, theo tục thì con trai theo bố, còn con
gái theo mẹ. Sau khi đường ai nấy đi, hai người vẫn được phép qua thăm bố mẹ.
Tuy nhiên, ngày bố mẹ mất, người La Ha kiêng kỵ việc con rể, con dâu cũ đến viếng.
đồ đựng gạo, đỗ đi khi đi hỏi
vợ.
Múa tăng gia lao động sản xuất.
Trường kì ‘ăn cơm trước kẻng’
Trước khi cưới, chàng trai phải sang ở rể cho bên nhà gái đến
hơn chục năm. Lúc đón dâu về nhà, chàng rể cũng đón luôn cả đàn con dăm bảy đứa.
Đó là tục lệ ở rể bao đời nay của người La Ha ở xã Nậm Păm, huyện Mường La, tỉnh
Sơn La.
Đó là những nơi heo hút rừng sâu, bao đời nay bà con dân tộc
thiểu số sống dựa vào thiên nhiên, định mệnh. Luật tục đã là một phần không thể
thiếu trong đời sống của họ. Luật tục vùng cao luôn mang màu sắc kỳ bí, huyền
thoại. Những luật tục đôi khi đẫm nước mắt vì khắc nghiệt, nhưng có lúc cũng lắm
tiếng cười.
Múa “A Sừng Lừng”.
Ở Nậm Păm bây giờ, không biết có phải do ảnh hưởng thời đại
kỹ thuật số hay không, mà thời gian ở rể của phần lớn các chàng trai thường ít
hơn và các nghi thức cũng giản tiện hơn nhiều.
Huyền Trang (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét