Tên tự gọi: Cù tê.
Tên gọi khác: Thổ Ðen, Mán, Xá.
Dân số: 13.158 người (theo kết quả điều tra dân số
năm 2009 của Tổng cục thống kê)
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai (ngữ hệ Thái – Ka Ðai), cùng nhóm với tiếng La Ha, Cơ Lao, Pu Péo.
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai (ngữ hệ Thái – Ka Ðai), cùng nhóm với tiếng La Ha, Cơ Lao, Pu Péo.
Lịch sử: Người La Chí có lịch sử cư trú
lâu đời ở Hà Giang, Lào Cai.
Hoạt động sản xuất: Người La Chí giỏi nghề khai khẩn
và làm ruộng bậc thang, trồng lúa nước. Họ gặt lúa nếp bằng hái nhắt còn gặt
lúa tẻ bằng liềm, đập lúa vào máng gỗ lấy thóc ngay ở ngoài ruộng. Họ sử dụng cả
ba loại nương với các công cụ sản xuất khác nhau: gậy chọc lỗ, cuốc, cày. Người
ta dành nương tốt nhất để trồng chàm, bông.
Người La Chí đan những đôi hòm bằng tre
vuông vức, cái hoa văn rất đẹp dành riêng cho cô dâu đựng tư trang khi về nhà
chồng. Những chiếc hòm tre đó trở thành biểu tượng của hạnh phúc lứa đôi. Chỉ
trong những trường hợp vợ chồng ly dị, đôi hòm tre mới có thể bị bỏ rơi, còn
không họ dùng đến lúc chết thì chôn theo.
Ăn: Người La Chí có cách nấu và ghế cơm bằng hơi nước rất
độc đáo. Cơm nấu trong chảo to, cơm sôi thì vớt lên cho vào chõ đồ như đồ xôi.
Cơm dỡ ra không bị nát mà khô dẻo nhờ được đồ chín bằng hơi nước nóng. Có nhiều
cách giữ thực phẩm để ăn dần như sấy khô, làm thịt chua là phổ biến nhất. Da
trâu sấy khô là món ăn rất được ưa chuộng.
Họ thích để răng đen. Răng càng đen
càng đẹp. Thanh niên thích bịt răng vàng coi đó là hình thức làm duyên làm
dáng, dấu hiệu của sự trưởng thành.
Ruộng bậc thang của người La Chí.
Mặc: Ðàn ông mặc áo dài năm thân, cài khuy bên nách phải,
tóc dài quá vai, đội khăn cuốn hay khăn xếp, thích đeo túi vải chàm có viền đỏ
xung quanh để đựng diêm thuốc và các thứ lặt vặt. Phụ nữ mặc quần, một số ít
còn mặc váy. Bộ y phục truyền thống là chiếc áo dài tứ thân xẻ giữa, yếm thêu,
thắt lưng bằng vải. Vào dịp tết, lễ người ta còn diện ba chiếc áo dài lồng vào
nhau. Nữ giới ưa dùng khăn đội đầu dài gần 3 mét. Màu chàm đen rất được ưa
thích. Nữ đeo vòng tai, vòng tay. Nam chỉ đeo vòng tay. Thầy cúng mỗi khi hành
lễ có y phục riêng. Ðó là bộ quần áo thụng, dài quá mắt cá chân, xẻ giữa, có thắt
lưng bằng vải, đầu đội mũ vải rộng, có quai. Trong một số nghi lễ, người hành lễ
đeo một miếng da trâu khô hoặc đội nón.
Ở: Họ thường sống từng làng ở vùng núi đất các huyện
Hoàng Su Phì, Xín Mần (Hà Giang). Nhà của mỗi gia đình là một quần thể kiến
trúc gồm nhà sàn - nhà trệt - kho thóc trong một phạm vi không gian hẹp. Kiểu
kiến trúc kết hợp chặt chẽ giữa sàn và nhà trệt là một sáng tạo văn hoá độc
đáo. Mỗi nhà gồm hai phần bằng nhau, mái lồng vào nhau, phần nhà sàn để ở, phần
nhà trệt là nơi làm bếp.
Dùng đũa là thói quen của người La Chí,
ngay cả khi ăn nhanh ở trên đường.
Lên nhà mới phải mời thầy cúng về
cúng xua đuổi ma bằng cách dùng ba cây cỏ lá khua bốn góc nhà, bắt đầu từ góc của
bố mẹ trước. Nếu người con trai đã có bàn thờ ở nhà cũ thì tháo bàn thờ đó về lắp
ở nhà mới trong vị trí của người chủ gia đình. Trong suốt 13 ngày kể từ hôm lên
nhà mới, bếp lửa luôn luôn sáng thì mới may mắn.
Phương tiện vận chuyển: Có sự kết hợp giữa cách vận
chuyển của cư dân vùng cao và cư dân vùng thung lũng. Phụ nữ phổ biến dùng địu
đan bằng giang hoặc địu vải. Cái địu đều có quai đeo trên trán để chuyên trở.
Ðàn ông dùng địu có hai quai đeo vai kiểu địu của người Hmông hoặc dùng đòn
gánh đôi dậu. Người La Chí địu trẻ em trên lưng khi đi xa hoặc lúc làm việc.
Chiếc máng lần là phương tiện dẫn
nước phổ biến về đến tận nhà hay gần nhà. Từ bến nước người ta chứa nước vào những
ống bương dài tới 1,5m và vác lên nhà sàn để gần chạn bát dùng dần.
Dùng ngựa để thồ hàng cũng là một
phương tiện phổ biến.
Tục nhận bố mẹ nuôi cho trẻ sơ sinh khá phổ
biến. Trẻ chào đời sau ba buổi sáng, gia chủ đặt một sợi chỉ đỏ trên một trên một
bát nước đầy ở trên bàn thờ, chờ ai đó vào nhà trước sẽ được làm bố mẹ nuôi, đặt
tên cho cháu bé. Trẻ khóc nhiều được quan niệm là tên chưa hợp, phải bói tìm
dòng họ thích hợp làm bố mẹ nuôi đặt tên cho con.
Các quan hệ xã hội: Gia đình ba thế hệ hay các cặp vợ chồng cùng thế hệ chung sống với nhau là phổ biến.
Mỗi họ có người đứng chăm lo việc cúng. Ðó không phải là trưởng họ mà chỉ là
người biết cúng. Người ta chọn người giữ vị trí này bằng cách bói xem xương đùi
gà. Người La Chí có cách gọi tên theo nguyên tắc phụ tử liên doanh với
công thức là: họ - pô (bố) - tên con - tên riêng của người được gọi. Người phụ
nữ có con được gọi theo công thức sau: Mìa (mẹ) - tên con cả - tên chồng.
Trong lễ cưới của người dân tộc La Chí,
khi đón dâu về tới chân cầu thang nhà sàn, nhà trai chuẩn bị sẵn một thùng nước
ấm để người phù dâu rửa chân cho cô dâu và rửa chân mình trước lúc bước lên cầu
thang vào nhà.
Thờ cúng: Người ta cúng tổ tiên vào các dịp lễ tết. Tổ tiên được cúng
ba đời đối với nam, hai đời đối với nữ. Theo phong tục, bố mẹ chôn ngày nào con
cái nhớ suốt đời không được gieo giống hay cho vay, mượn vào ngày đó. Ðó không
phải là ngày sinh sôi, phát triển.
Trong một nhà có nhiều bàn thờ cho
mỗi người đàn ông. Bàn thờ dựng theo thứ tự của bố, con trai út, các con trai
thứ, trong cùng của con trai cả. Mỗi bàn thờ được coi là hoàn thành phải qua ba
lần cúng dỡ đi lập lại bàn thờ mới.
Học: Các kiến thức và kinh nghiệm dân gian được trao truyền
giữa các thế hệ bằng miệng. Thần thoại, cổ tích đặc biệt phong phú giải thích
cho thế hệ trẻ nhiều hiện tượng thiên nhiên và xã hội theo quan niệm dân gian.
Văn nghệ: Ngày tết, lễ trai gái thường hát
đối đáp, chơi đàn tính 3 dây, đàn môi. Trống, chiêng được dùng phổ biến.
Chơi: Tết Nguyên đán nam nữ thường tập trung ở bãi rộng
chơi ném còn, đánh quay, chơi đu thăng bằng. Tết tháng tám họ chơi đu dây. Trẻ
em thích chơi ống phốc.
Minh Hồng (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét