Cồng Chiêng Dân Tộc Ba Na Kon Tum. * Biên Khảo Huỳnh Tâm.

Dân tộc Ba Na (hay Bahnar), có dân số khoảng 286.910 người, một trong những cộng đồng lớn nhất vùng Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Quảng Ngãi và một phần Bình Định. Họ nổi tiếng với văn hóa phong phú: Sử thi dân gian như "H'Bia Đrang", cồng chiêng (gong), điệu múa xoang, hát Ay Ray, và kiến trúc nhà rông những yếu tố phản chiếu triết lý nhân văn về sự hài hòa giữa con người, thiên nhiên và cộng đồng mẫu hệ. Cồng chiêng Ba Na là phần quan trọng của không gian Văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, nơi tiếng chiêng không chỉ là âm nhạc mà còn là cầu nối tâm linh, gắn bó với nghi lễ cúng tổ tiên, lễ hội và đời sống hàng ngày.
Các nghệ nhân cồng chiêng Ba Na thường "hồi sinh" di sản từ ngàn đời, tiếng chiêng vang vọng nương rẫy đến nghi lễ bên nhà rông, thành giá trị siêu nhiên, bảo tồn bản sắc trước đô thị hóa. Họ mang tầm nhìn mở rộng: từ buôn làng đến sân khấu quốc tế, nhấn mạnh sự kiên cường và thủy chung với đất trời Cao Nguyên.
Dựa trên dữ liệu cập nhật một số nghệ nhân cồng chiêng tiêu biểu từ dân tộc Ba Na ở Kon Tum.
 
Dân Tộc Ba Na, Thành Phố Kon Tum. Người Giữ Hồn Chiêng Tây Nguyên.
Sinh năm 1958 tại An Khê (Gia Lai), nhưng định cư và hoạt động chủ yếu ở xã Ngọc Bay, thành phố Kon Tum, A Biu là nghệ nhân đa tài, am hiểu cồng chiêng Ba Na và các dân tộc khác (Ê Đê, Gia Rai). Ông tự học từ cha (nghệ nhân Kon Tum) qua việc mượn bộ chiêng làng, mày mò cách đánh và sưu tầm từ Gia Lai đến Đắk Lắk. Được công nhận Nghệ nhân Ưu tú năm 2010, ông xây dựng không gian văn hóa gia đình (gần 1.000 m²) với tượng gỗ, nhà rông mô hình và hàng chục nhạc cụ. Ông mở lớp dạy chiêng cho học sinh, thanh thiếu niên tại các trường và làng, truyền nghề cho hàng trăm học trò. Dù sức khỏe yếu, ông vẫn đi bộ từ Kon Tum đến Đắk Lắk dạy cuối tuần.
A Biu tái sinh tiếng chiêng, âm thanh thiêng liêng từ nghi lễ, thành bài học văn hóa, phản ánh "hữu thể" qua hòa thanh núi rừng. Nhân văn ở đây là sự tri ân cội nguồn: Ông vượt nghèo khó và tuổi tác để bảo tồn giá trị cộng đồng, nhấn mạnh chiêng như "lời tâm tình vui buồn, lịch sử dân tộc". Tầm nhìn mở rộng: không gian gia đình của ông là "không gian trưng bày" sống động, lan tỏa bản sắc Ba Na đến nhiều thế hệ.
 
Dân Tộc Ba Na, Huyện Sa Thầy. Người Bảo Vệ Bộ Chiêng Quý Tộc.
Sinh năm 1957 tại làng Đăk Wơk, xã Hơ Moong, huyện Sa Thầy, Kon Tum, A Thút xuất thân từ gia đình nghệ nhân (cha là già A Bek "báu vật sống" về cồng chiêng, đẽo thuyền và kể sử thi). Ông học nghề từ nhỏ, kế thừa bộ chiêng gia tộc. Năm 1983, khi gia đình mất mùa và định bán chiêng, ông kiên quyết dùng 3 con bò đổi lương thực để giữ lại di sản. Ông biểu diễn tại các lễ hội bỏ mả, Pơ Inê (cầu mùa), và dạy chiêng cho thế hệ trẻ qua các lớp cộng đồng. Ông góp phần ghi âm và ký âm hơn 145 bài chiêng cổ.
Nhân Văn: Như Lan Anh khắc phục vết nứt ván lợp, A Thút "hồi sinh" bộ chiêng, tài sản thiêng, từ nguy cơ mất mát thành biểu tượng trường tồn, tượng trưng cho sự tái sinh cộng đồng. Học từ thiên nhiên và gia tộc, ông vượt túng quẫn để bảo tồn giá trị mẫu hệ, nơi phụ nữ giữ lửa văn hóa. Tầm nhìn: dùng chiêng làm cầu nối quá khứ - hiện tại, quảng bá bản sắc Sa Thầy ra thế giới qua lễ hội.
 
Dân Tộc Ba Na, Xã Vinh Quang. Người Truyền Nghề Cho Học Sinh.
Hành Trình: Sinh năm khoảng 1949 tại làng Kon H’Ngo K’Tu, xã Vinh Quang, thành phố Kon Tum, A Khul là nghệ nhân uy tín, nắm vững chỉnh chiêng, sáng tác bài chiêng mới và quản lý bộ chiêng làng (giao chìa khóa nhà rông). Ông học từ các nghệ nhân lớn tuổi từ những năm 1960. Ông dạy cho học sinh trường địa phương, giúp họ đạt giải tại Liên hoan Cồng Chiêng học sinh Kon Tum. Ông tham gia 61 lớp dạy chiêng, với hơn 1.084 học viên, và biểu diễn tại Đêm hội Cồng Chiêng "Âm Vọng Cội Nguồn".
Nhân Văn: A Khul tái định nghĩa chiêng như "cuộc sống thật nhưng phong phú hơn", vượt hữu hạn qua hòa tấu cộng đồng. Nhân văn nằm ở sứ mệnh giáo dục: ông dùng chiêng kể chuyện đoàn kết buôn làng, nhấn mạnh lòng nhân ái với tổ tiên. Tầm nhìn mở rộng: lớp học của ông là "không gian trưng bày" tinh thần, lan tỏa giá trị Ba Na đến thế hệ trẻ.
 
Nghệ Nhân Ri Ang.
Dân Tộc Ba Na, Huyện Đăk Hà. Đại Diện Lễ Hội Và Giao Lưu.
Sinh năm khoảng 1960 tại làng Kon Vơng Kia, thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông (gần Đăk Hà, Kon Tum), Ri Ang dẫn dắt đội cồng chiêng 16 thành viên, biểu diễn tại Đêm hội Cồng Chiêng "Âm Vọng Cội Nguồn, Đoàn Kết Các Dân Tộc Tỉnh Kon Tum". Ông học nghề từ cộng đồng từ nhỏ, tham gia các lễ hội bỏ mả và Pơ Thi.
Nhân Văn Kantian: Âm nhạc phục vụ lợi ích chung, ông vượt mai một để bảo tồn ngôn ngữ Ba Na, thúc đẩy thấu hiểu giữa các dân tộc. Tầm nhìn: dùng lễ hội làm cầu nối, quảng bá bản sắc Kon Plông đến bạn bè quốc tế.
 
Nghệ Nhân Cồng Chiêng Vô Danh (Dân Tộc Ba Na, Thành Phố Kon Tum và Huyện Đăk Tô). Những Người Giữ Lửa Làng Cổ.
Ở làng cổ Kon K’tu (xã Đăk Rơ Wa, TP Kon Tum) và Đăk Tô, nhiều nghệ nhân vô danh như nhóm tại Nhà rông Kon Klor tham gia Hội thi Cồng Chiêng, với 17 đội từ các xã phường. Họ thuộc lòng bài chiêng cổ, biểu diễn trong lễ cúng giọt nước và mừng nhà mới, góp phần vào 2.134 bộ chiêng.
Nhân Văn từ nghi lễ gia đình thành hòa tấu cộng đồng, nhấn mạnh sự thủy chung cội nguồn: từ buôn làng đến sân khấu lớn, vượt thử thách để bảo tồn văn hóa mẫu hệ. Tầm nhìn: Chiêng là "không gian trưng bày" tinh thần, quảng bá qua di sản sống động tại làng cổ.
Những nghệ nhân cồng chiêng Ba Na ở Kon Tum, dù ít được biết rộng rãi hơn Ê Đê hay Gia Rai, đều thể hiện triết lý nhân văn sâu sắc: Tái sinh di sản từ thử thách (mai một, đô thị hóa), với tầm nhìn từ buôn làng đến quốc tế. Họ tạo nên bản giao hưởng văn hóa Cao Nguyên, nơi mỗi tiếng chiêng là lời khẳng định sự trường tồn của dân tộc.
* Biên Khảo Huỳnh Tâm.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét