Những dân tộc thiểu số Tây
Nguyên, sử thi chứa đựng cả một bề dày văn hóa, một chiều dài lịch sử cũng như
những kinh nghiệm sống được tích lũy lâu đời. Mỗi sử thi đều mang hồn cốt văn
hóa, như thanh âm hùng vĩ của cuộc sống cộng đồng dân tộc nơi đại ngàn, vọng về
từ hàng nghìn năm lịch sử.
Sử thi được diễn xướng trong những
đêm nhà có lễ lạt, ma chay, hiếu hỷ, mọi người ngồi quây quần quanh bếp lửa.
Sử thi được diễn xướng trong những
đêm nhà có lễ lạt, ma chay, hiếu hỷ, mọi người ngồi quây quần quanh bếp lửa.
Trong gian khách nhà dài, bên
ánh lửa bập bùng giữa đêm, nghệ nhân trẻ Y Wôn Knul (ở buôn Ako Dhông, thành phố
Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) chậm rãi hát kể bài Khan “Mdrong Dam”. Nội dung lời
kể là câu chuyện về lai lịch, sự ra đời của chàng Mdrong Dam một nhân vật anh
hùng tiêu biểu trong sử thi Êđê: “Mdrong Dam là con của nàng H’Bia Knhí và
chàng Dăm Bhu giàu có. Vợ Mdrong Dam là nàng H’Bia Êsun xinh đẹp. Sắc
đẹp của nàng H’Bia Êsun khiến các tù trưởng quanh vùng ghen tỵ. Là người
giỏi giang, tiếng tăm lừng lẫy, Mdrong Dam thường xuyên đi săn bắn, mở rộng
buôn làng ra các hướng”.
Qua lời kể của nghệ nhân, một
không gian lịch sử như được tái hiện với những nhân vật anh hùng đậm màu sắc thần
thoại, những phân cảnh sinh hoạt trong đời sống buôn làng, những "mùa ăn
năm uống tháng" trong truyền thống văn hóa Êđê.
Trong khi nghệ nhân hát kể, mọi
người ngồi xung quanh và im lặng để nghe những tiếng kể Khan trầm bổng ngân
vang khắp ngôi nhà dài. Thỉnh thoảng, xen giữa những đoạn kể, nghệ nhân thổi một
điệu sáo trầm bổng, du dương, càng khiến cho bài Khan trở nên huyền ảo.
Theo nghệ nhân Y Wang H Wing (ở
buôn Triă, xã Ea Tul, huyện Cư Mgar, tỉnh Đắk Lắk), từ bao đời nay, lời kể Khan
vẫn được người Êđê tôn trọng, gìn giữ và xem là di sản văn hóa, là giá trị tinh
thần vô cùng quý giá của cộng đồng: "Bởi vì từ xưa trong ngôn ngữ của người
Êđê có lời nói vần, nói sâu xa ý nhị. Người nói biết "khan", biết
"kưt", biết nói vần nên họ sử dụng nó để truyền đạt điều mình muốn
nói, kể cả trong răn dạy con cháu, nói về lý lẽ luật tục, nói chuyện hôn nhân.
Qua đó răn dạy mọi người về những điều hay, lẽ phải, dặn dò con cháu… những lời
này họ đều nói một cách rất ý nhị bằng văn vần".
Hát kể sử thi hay còn gọi là
Khan, là Hri, Ot Ndrông, hay H’mon…Mỗi sử thi đều chứa đựng những biến cố của
dân tộc, xoay quanh những chiến công của các anh hùng có công bảo vệ buôn làng,
chống lại những thế lực xấu xa. Những nhân vật trong sử thi không mang
tính cá nhân, mà đại diện cho ước vọng của cả cộng đồng, cho những cuộc đấu
tranh vì lý tưởng nhân văn cao cả.
Những nghệ nhân kể sử thi là những
kho tàng sống, góp phần lưu giữ những giá trị tinh thần vô giá của người Tây
Nguyên.
Nghệ nhân Jrai Rơ Châm Nha kể sử
thi là kho tàng sống, góp phần lưu giữ những giá trị tinh thần vô giá của người
Tây Nguyên.
Mỗi một tác phẩm sử thi kể một
câu chuyện liên quan đến nhiều chủ đề. Có những tác phẩm kể câu chuyện liên
quan đến chủ đề về hợp nhất bộ lạc, bộ tộc. Có những tác phẩm lại thể hiện đề
tài hôn nhân gia đình, có những tác phẩm thể hiện về lao động hay có những tác
phẩm thể hiện về đời sống tín ngưỡng. Đặc biệt đằng sau đó là bức tranh vô cùng
độc đáo, như chúng ta chứng kiến trong thực tiễn, liên quan đến đời sống xã hội
của các dân tộc tại Tây Nguyên.
Mỗi tác phẩm sử thi là một câu
chuyện dài. Nếu ghi chép lại đầy đủ với các câu từ thì một bài sử thi có thể
dài tới 3.000 – 4.000 câu. Khác với sử thi của nhiều nền văn hóa khác trên thế
giới, sử thi Tây Nguyên được lưu giữ trong trí nhớ của nghệ nhân và truyền lại
cho cộng đồng bằng hình thức truyền miệng thông qua những sinh hoạt mang tính cộng
đồng.
Đồng bào Tây Nguyên vốn không
có chữ, không có sách; thì tất cả mọi thứ có thể để ghi chép thì bà con phải sử
dụng trí nhớ. Sử thi là một trong những kho tàng chứa đựng tất cả những tri thức
hay những thông tin về lịch sử, về văn hóa, về đời sống xã hội của đồng bào. Vì
vậy sử thi có vai trò, có vị trí rất quan trọng trong đời sống của người Tây
Nguyên.
Trong thực tế, sử thi được diễn
xướng trong những đêm nhà có lễ hội, ma chay, hiếu hỷ, mọi người ngồi quây quần
quanh bếp lửa. Người hát kể sử thi chậm rãi trò chuyện, dẫn dắt bài kể và ngân
nga, diễn xướng. Tùy vào tâm trạng, bối cảnh bài kể, người kể khi cao giọng,
khi lắng trầm, khi lại ngâm ngợi, khi diễn giọng nữ, khi diễn giọng nam, khi giọng
thần tiên. Dường như mọi cảm xúc của họ đều dồn hết vào từng nhân vật, như đắm
chìm vào thế giới riêng và mỗi lần kể là mỗi lần thăng hoa. Cứ như vậy, có những
bài sử thi chỉ kể hết trong một đêm, cũng có những bài kéo dài cả tuần.
Tính chất của sử thi là những
câu hát vần, đối đáp, ứng biến linh hoạt tùy theo không gian thể hiện hay bối cảnh
và trí nhớ của người kể. Họ sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, ước lệ để làm
bật lên tính cách, tài năng nhân vật, tạo nên một yếu tố kỳ ảo trong sử thi,
khiến cho người nghe như được sống trong không gian kỳ ảo cùng với các nhân vật.
Chính sự sáng tạo độc đáo của
nghệ nhân đã tạo nên những tác phẩm trường tồn trong cộng đồng. Đó là những tiểu
thuyết bằng thơ rất đa dạng, là một kho tàng văn học truyền miệng vô cùng độc
đáo của người Tây Nguyên, giá trị nhân văn của nó rất lớn, giá trị về mặt nghệ
thuật, văn vần, sự sáng tạo cũng rất đặc biệt. Trường ca sử thi Tây Nguyên là một
di sản vô cùng tuyệt vời, độc đáo và phong phú.
Những nghệ nhân kể sử thi là những
kho tàng sống, góp phần lưu giữ những giá trị tinh thần vô giá của người Tây
Nguyên. Ngoài trí nhớ thiên bẩm, nghệ nhân phải am hiểu phong tục tập quán, có
trải nghiệm mới thể hiện được những lời khan chân thật nhất. Bởi vì chủ đề
chính của sử thi là những con người kỳ vĩ, những anh hùng lý tưởng của dân tộc,
là niềm tự hào của cộng đồng và được nhân dân tôn kính. Đó là những Dam San,
Dam Yi, Dam Bhu, Dam Bha, Dam Noi, Buh Klông, Tiông, Jông, Jú,… Mỗi sử thi gắn
bó với cuộc sống cộng đồng, phản ánh mọi khía cạnh của đời sống của xã hội Tây
Nguyên, từ con người, thiên nhiên, đến thế giới thần linh, lịch sử, văn hóa… Bởi
thế, sử thi được xem là “bách khoa thư” của một tộc người.
.jpg)

.jpg)



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét