Lần đầu tiên, các nhà nghiên cứu
đã phát hiện ba (3) bộ “Sử Thi Liên Hoàn Tây Nguyên” hay còn gọi là “Sử Thi Chuỗi”,
sử thi phổ hệ đồ sộ của các dân tộc M'Nông, Ba Na và Xê Đăng.
Để thực hiện được dự án trên,
đã tiến hành khảo sát hàng nghìn buôn, bon, plây của 530 xã, phường, thị trấn
thuộc 56 huyện, thành phố của 5 tỉnh Tây Nguyên gồm Đác Lắc, Đác Nông, Gia Lai,
Kon Tum, Lâm Đồng và ba tỉnh vùng phụ cận gồm Bình Phước, Ninh Thuận, Khánh
Hòa, Phú Yên.
Các nhà nghiên cứu đã lập được
danh sách hàng trăm tên tác phẩm sử thi, gặp gỡ 363 nghệ nhân còn nhớ, hát kể
các tác phẩm sử thi thuộc các dân tộc Êđê, Gia Rai, M'nông, Xê Đăng, Ba Na, Xê
Tiêng, Mạ, Raglai, Chăm Hroi. Đáng chú ý, có những
nghệ nhân thuộc 5-6 bộ sử thi và có những nghệ nhân hát kể trên 10 sử thi như
già làng Điểu Klứt, Điểu Rung (dân tộc M'Nông), bà Mấu Thị Giêng (Raglai) thuộc
ba bộ sử thi đồ sộ với 150 giờ hát kể.
Các nhà nghiên cứu cho rằng khó
khăn nhất của những người làm công tác sưu tầm, phố biến văn hóa dân gian ở Tây
Nguyên hiện nay là không tìm được người phiên âm, phiên dịch các bộ sử thi này nên
khối lượng xuất bản còn ít. Trong khi đó, số nghệ nhân biết hát kể sử thi ngày
một già yếu, thậm chí có người đã qua đời.
Ba tác phẩm sử thi đầu tiên của
kho tàng sử thi Tây Nguyên được xuất bản gồm hai tác phẩm sử thi của đồng bào
dân tộc M'Nông, một tác phẩm sử thi của đồng bào Raglai.
"Sử thi chuỗi" hay
"sử thi liên hoàn" là một khái niệm chỉ một tập hợp lớn các sử thi, mỗi
bộ sử thi có thể bao gồm hàng chục, thậm chí hàng trăm tác phẩm riêng lẻ được
xâu chuỗi lại với nhau, thường là của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên như Ba
Na, M'nông, Xê Đăng. Khác với sử thi đơn lẻ, sử thi chuỗi có quy mô đồ sộ, phản
ánh hệ thống tri thức, lịch sử, và văn hóa của cả một cộng đồng qua nhiều thế hệ.
Đặc điểm của sử thi chuỗi:
Quy mô đồ sộ: Mỗi "bộ"
sử thi chuỗi chứa hàng trăm câu chuyện, tác phẩm riêng lẻ được kết nối, tạo
thành một kho tàng lớn.
Chủ đề đa dạng: Phản ánh lịch sử,
văn hóa, phong tục, tín ngưỡng, và những câu chuyện về anh hùng của một dân tộc.
Hình thức biểu diễn: Thường được
hát kể trong các dịp lễ hội, nghi lễ quan trọng, gắn bó mật thiết với nghệ thuật
biểu diễn sân khấu của các dân tộc.
Tính liên kết: Các câu chuyện,
sự kiện được xâu chuỗi lại, tạo thành một mạch truyện, một dòng chảy lịch sử và
văn hóa liên tục.
Sử thi chuỗi và các dân tộc Tây
Nguyên:
Kho tàng lớn: Các dân tộc Tây
Nguyên sở hữu kho tàng sử thi vô cùng phong phú và đồ sộ.
Vai trò gắn kết cộng đồng: Sử
thi đóng vai trò quan trọng trong việc gắn kết cộng đồng, giáo dục truyền thống
cho thế hệ sau, và thể hiện tinh thần, trí tuệ của dân tộc.
Tình trạng hiện nay: Do các nghệ
nhân biết hát kể sử thi đang già yếu hoặc qua đời, cùng với sự thay đổi của môi
trường sống và lối sống, nhiều bộ sử thi chuỗi đang dần mai một.
Sử thi Tây Nguyên, nhìn từ góc
độ sưu tầm.
Tây Nguyên là nơi phát sinh và
lưu truyền một loại hình văn hóa vô cùng độc đáo - văn hóa sử thi Tây Nguyên. Sử
thi ở đây tồn tại độc lập như một thể loại văn học. Nó càng thêm đặc biệt vì
đang 'sống' trong đời sống văn hóa của cộng đồng các dân tộc thiểu số bản địa
Tây Nguyên.
Giới nghiên cứu folklore nhiều
lần khẳng định, Tây Nguyên chính là vùng văn hóa sử thi. Từ góc nhìn liên văn
hóa - đặt sử thi bên cạnh các loại hình văn hóa tiêu biểu khác trong không gian
văn hóa Tây Nguyên như âm nhạc cồng chiêng, nghệ thuật điêu khắc gỗ, tín ngưỡng
vòng đời... sẽ rõ sự phân định vùng văn hóa sử thi cho Tây Nguyên của giới
nghiên cứu folklore hoàn toàn xác đáng, cả lý luận lẫn thực tiễn. Tây Nguyên là
nơi phát sinh và lưu truyền một loại hình văn hóa vô cùng độc đáo - văn hóa sử
thi Tây Nguyên. Sử thi ở đây tồn tại độc lập như một thể loại văn học. Nó càng
thêm đặc biệt vì đang "sống" trong đời sống văn hóa của cộng đồng các
dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên.
Nhà folklore Tây Nguyên Krajan
Plin cho rằng, với số lượng những sử thi đã công bố khoảng 100 sử thi, cộng
thêm những sử thi đã được sưu tầm nhưng chưa công bố cùng những sử thi đang tiếp
tục sưu tầm đã đủ cơ sở để khẳng định không một nơi nào trên đất nước ta lại có
nhiều sử thi như ở Tây Nguyên.
Từ công việc sưu tầm sử thi của
mình, nhà folklore Tây Nguyên Krajan Plin nhận thấy, vì là một thể loại văn học
dân gian, được lưu truyền bằng cách truyền miệng, nên khi sưu tầm cần lưu ý
tránh lối tư duy học thuật, lấy tư duy của người đương đại để diễn giải cách
nghĩ của người xưa. "Nếu không thận trọng, với lối tư duy học thuật, rất dễ
suy diễn chủ quan, dẫn đến việc diễn giải các tình tiết trong sử thi bị lệch lạc.
Bên cạnh đó, người sưu tầm cũng phải có sự am hiểu nhất định về đặc trưng thể
loại (ngôn ngữ sử thi), gốc tích của câu chuyện, nhất là biết đủ về các luật tục,
cùng lối diễn xướng bằng văn vần và văn xuôi, những câu đối thoại đậm tính hình
tượng của các nhân vật trong sử thi thì mới chuyển tải sát đúng với bản ngữ, giữ
được ở mức tối đa lối diễn tả ví von, ngôn ngữ giàu tính ngoa dụ, phóng đại"
- nhà folklore Tây Nguyên Krajan Plin chia sẻ.
Theo nhà folklore Tây Nguyên
Krajan Plin, sử thi thường được chia thành nhiều khúc, chương, đoạn. Mỗi
chương, đoạn, khúc mô tả một sự kiện, hoặc một chuỗi sự kiện, một nhân vật, hoặc
nhiều nhân vật liên quan đến sự kiện. Nhiều khúc, đoạn, chương như vậy xâu chuỗi
lại thành một sử thi hoàn chỉnh. Do vậy, người sưu tầm nên tự trang bị vốn ngôn
ngữ bản địa để thông nắm diễn tiến của câu chuyện, sự chuyển tiếp giữa các
chương, đoạn, khúc, cũng như những sự kiện mà nhân vật sử thi tham gia, hoặc bị
chi phối bởi những nhân vật khác, sự kiện khác. "Một lưu ý nữa đối với người
sưu tầm đó là sự biến âm trong cách gọi tên nhân vật. Ngoài ra, nhân vật cùng
tên không có nghĩa là cùng xuất hiện trong một sử thi" - nhà folklore Tây
Nguyên Krajan Plin nhấn mạnh.
Trong cuốn sách của mình
"Những mảng màu văn hóa Tây Nguyên", Công việc phiên âm, phiên dịch sử
thi Tây Nguyên ra tiếng Việt rất khó khăn. Bản phiên âm tiếng nói của người bản
địa Tây Nguyên, bên cạnh nguyên tắc giữ đúng lối diễn xướng sử thi, còn phải đảm
bảo lối tư duy của người xưa, rồi mới tìm cách chuyển ngữ sang tiếng Việt. Tiếp
cận sử thi Tây Nguyên, không nên dừng lại ở việc tiếp cận dưới góc độ văn học,
phải ở góc độ văn hóa. Như vậy, chúng ta mới cảm nhận được các nội dung xã hội,
văn hóa, lịch sử, nghệ thuật mà sử thi Tây Nguyên đã bao chứa.
Thể loại Sử thi.
Tìm hiểu về sử thi bao gồm các
nội dung: khái niệm, đặc trưng và cách phân loại sử thi giúp các em củng cố và
mở rộng kiến thức về thể loại sử thi.
Chiến thắng Mtao Mxây - Sử thi
Tây nguyên.
Tổng hợp các cách mở bài, kết
bài cho tác phẩm cho tác phẩm Chiến thắng Mtao Mxây.
Tổng hợp các bài văn nghị luận
về tác phẩm Chiến thắng Mtao Mxây.
1 . Khái niệm.
Sử thi là tác phẩm tự sự dân
gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng
nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hoặc nhiều biến cố lớn diễn ra
trong đời sống cộng đồng của cư dân thời cổ đại.
2 . Đặc trưng.
Nội dung của sử thi có tính rộng
lớn, kể về sự kiện trọng đại của quá khứ, biểu hiện toàn bộ đời sống văn hóa, lịch
sử của cộng đồng, thể hiện quá trình vận động của tộc người đó qua các giai đoạn
khác nhau.
Nghệ thuật: sử thi là những câu
chuyện kể văn xuôi xen lẫn văn vần, có sử dụng các yếu thành ngữ, tục ngữ, những
từ ngữ cổ, hình thức nghệ thuật ngôn từ dân gian.
3 . Phân loại sử thi.
- Ở dạng cổ xưa nhất của sử
thi, tính anh hùng còn hiện diện trong vỏ bọc thần thoại hoang đường (các dũng
sĩ không chỉ có sức mạnh chiến đấu mà còn có năng lực siêu nhiên, ma thuật, kẻ
địch thì luôn hiện diện dưới dạng quái vật giả tưởng). Những đề tài chính được
sử thi cổ xưa miêu tả: chiến đấu chống quái vật (cứu người đẹp và dân làng),
người anh hùng đi hỏi vợ, sự trả thù của dòng họ.
b . Sử thi cổ điển.
- Các dạng cổ điển của sử thi
có nhân vật thường là các dũng sĩ kiêm thủ lĩnh và các chiến binh đại diện dân
tộc ở tầm lịch sử; các kẻ thù của họ thường được đồng nhất với bọn xâm lược, những
kẻ áp bức, ngoại bang và dị giáo (như người Turk, người Tartar với
sử thi Slavơ).
- Thời gian sử thi ở đây khác với
sử thi dân gian, không còn là thời đại sáng chế các thần thoại, mà là quá khứ
vinh quang trong buổi bình minh của lịch sử dân tộc.
- Sử thi cổ điển là các nhân vật
và biến cố lịch sử, mặc dù bản thân sự miêu tả các chất liệu lịch sử bị phụ thuộc
vào sơ đồ cốt truyện truyền thống, đôi khi còn sử dụng cả mô hình nghi lễ thần
thoại.
- Các nền sử thi thường là các
cuộc đấu tranh của hai bộ lạc hoặc bộ tộc, sắc tộc ít nhiều tương ứng với sự thật
lịch sử (như cuộc chiến Troia trong Iliad, việc tranh đoạt Sampo trong Kalevala).
Quyền lực được tập trung trong các nhân vật trung tâm có hành động tích cực là
các ông vua của thế giới sử thi (như Karl Đại Đế trong bản Anh
hùng ca Roland), hay các dũng sĩ. Các nhân vật nổi loạn, cách mạng xung đột
với quyền lực (Akhillos trong Iliad, Đăm San
trong khan Êđê, Robin Hud trong thiên ballade của Anh, các nhân vật
trong Thủy hử ở Trung Hoa) xuất hiện ít ỏi trong giai đoạn tan rã
hình thức cổ điển của sử thi anh hùng.
c. Sử thi anh hùng.
- Những anh hùng ca, với tư
cách là các tác phẩm sử thi anh hùng cỡ lớn, thể hiện sự tương quan giữa yếu tố
cá nhân anh hùng và yếu tố sử thi tập thể rõ rệt, đủ để bộc lộ tính tích cực cá
nhân, đã trở thành công cụ đắc lực cho sự biểu hiện yếu tố toàn dân, và dân tộc.
- Trường ca sử thi "về thực
chất có liên quan đến thời trung đại, khi dân chúng tỉnh dậy từ giấc ngủ nặng nề,
nhưng tinh thần thì đã cứng cáp đến mức tạo được thế giới riêng của mình và tự
cảm thấy mình gắn bó máu thịt với thế giới ấy... Khi bản thân cái cá nhân được
giải phóng khỏi khối vẹn toàn dân tộc khởi thủy với trạng thái chung, lối nghĩ
lối cảm chung, hoạt động và số phận chung, thì thay cho thơ ca sử thi những cái
sẽ phát triển chín muồi hơn cả một mặt là thơ và mặt khác là kịch"
(Hegel).
Sử thi Văn Hóa Êđê.
Mdrong Damtóm tắt cốt
chuyện: M’Drong Dăm là con của nàng H’ Bia Knhí và chàng Dăm Bhu giàu
có. Chàng có vợ là nàng H’Bia Sun xinh đẹp. Sắc đẹp của nàng khiến
các tù trưởng quanh vùng ghen tỵ. Lần lượt đợi những lúc M’Drong Dăm
vắng nhà, các tù trưởng Mtao Ak, Mtao Anur và Mtao Kuăt lại đến kiếm
cớ đến thăm chơi nhà, lừa bắt H’Bia Sun. Nhờ mái tóc dài của H’ Bia
Sun biến thành chim cu báo tin, M’Drong Dăm đánh nhau với các từ trưởng
trên, giành lại được vợ mình
Người kể chuyện:
Ching nhà M’Drong Dăm không
rời khỏi xà dọc. Rìu rựa không rời khỏi cán. Đầu trâu bò phơi khô
không kể ngày đêm. Họ đánh ching cùng một nhịp, đánh trống đôi cùng
một hơi. Nhà giàu ăn năm uống tháng không dứt tiếng ching. Họ uống
rượu, nước tràn xuống gầm nhà, làm con ếch trắng phải kêu, con nhái
kêu inh ỏi dưới gầm nhà sàn. Đến lúc đó nhà M’Drong Dăm mới cởi
ching, gỡ ché. Mùa ăn năm uống tháng tạm ngừng. Nhà M’Dong Dăm ăn năm
uống tháng đã dứt. Chàng gọi:
– Ơ chim chích một ngàn,
chim cu một trăm, bao nô lệ của ta ơi! Nào chúng ta hay đi hạ cây mruah
làm cánh ná, thân ná ta làm bằng cây kbla. Ta tìm cây nào cứng dẻo
và thẳng nhất, ta bắn con hoẵng chết tại gố cây ksa, bắn con nhím
chết dưới gốc cây đa, bắn heo rừng, con nai chết la liệt.
H’Bia Sun :
– Ơ anh M’Drong Dăm. Anh cứ đi
đến khu rừng mà anh muốn. Cây ktu, cây kbla anh cứ hạ đi.
M’Drong Dăm :
– Nào, chúng ta đi. Hỡi chim
chích một ngàn, chim cu một trăm, bao nô lệ đó đây ơi. Chúng ta đi nườm
nượp như đàn hươu. Chàng trai cầm cây ná, các cô gái xếp nồi cơm. Ơ
chị, ơ em, chúng ta đi thôi ! Ta đi đến nơi rừng thưa thoáng gió, mát
mẻ. Ta đi săn bắn. Chúng ta đến núi cao, gai cỏ tranh đâm bàn chân, gai
mây đâm bàn tay. Ta tìm thịt ngon, cá béo. Đên skhu ràng vắng, nhiều
hươu nai, chim chóc là chỗ chúng ta săn bắn đấy.
Dân làng :
– Ơ chồng H’Bia Sun ! ta đi
vào khu rừng xa buôn làng. Chúng tôi mệt quá. Còn H’Bia Sun ta không
ngó, ta bỏ H’Bia Sun ăn củ mài. Chúng tôi sợ có kẻ giàu sang hùng
mạnh đến cướp mất nàng.
M’Drong Dăm:
– Ơ chim chích một ngàn,
chim cu một trăm, nô lệ của ta. Các người đừng vội ngã giữa đường,
đừng vội tin, đừng vội nghĩ đến thần linh. Chỉ sợ gặp phải tiếng
chèo bẻo hót, chim bồ chao la ta mới kiêng cữ.
Dân làng :
– Anh M’Drong Dăm, đi vào
rừng thưa, đi lên núi cao thoáng mát, trên đường đi bị gai tranh đâm
chân. Gai mây đâm tay.
M’Drong Dăm dẫn mọi người đi
tìm ơi nào thấy thú ăn trái cây knia, đi tìm hươu nai đang tắm ở đầm
lầy, tìm bò tót, con min đang ăn cỏ non. Nên chàng dẫn họ đến núi
thoáng, rừng đẹp, đến nơi rừng hoang, nơi ấy muông thú chưa hơi người,
chuột sóc chưa biết ăn lúa bắp. Núi nối núi, rừng giáp rừng. Những
đồi nhấp nhô, núi cao có gió thoáng mát. Ở nơi đó nhìn thấy con
hoẵng đứng nghiêng nghiêng, đàn hươu nhi nhúc, con mang đứng đầy rừng
non, quanh gốc cây knia. Đấy là khu rừng M’Drong Dăm muốn săn bắn.
M’Drong Dăm:
– Hỡi lũ trẻ giữ bò, coi
trâu, hãy vào rừng tìm cây, cắt tranh làm lán. Ta nghỉ ở đây để sắn
bắn.
Sau khi dựng lán xong,
M’Drong Dăm bắt đầu đi săn bắn. Chàng đi từ sáng đến tối mới về lán.
Băn con bò rừng chết nằm la liệt ở ba đồi tranh, bắn con nai chết
nhiều vô kể, bắn bò rừng, con min chết khắp núi đá. Về đến lán.
M’Drong Dăm gọi mọi người.
M’Drong Dăm:
– Ơ chim chích một ngàn,
chim cu một trăm, nô lệ đó đây. Hãy nướng và phơi thịt khô đi.
Sau khi phơi thịt trên dàn
bếp đã khô, M’Drong Dăm lại giục mọi người:
– Hỡi trẻ nhỏ, con cháu,
kẻ chăn bò, người chăn trâu. Các người hãy đem thịt khô về cho H’Bia
Sun xinh đẹp. Ở nhà nàng đã chán ăn óc trâu, ăn gan bò, rượu ngọt,
rượu chua cũng chán rồi.Nàng muốn ăn gan con nai, sừng vừa đúng một
sải tay. Nàng ăn thịt bò rừng, thịt nai mới khỏe người, mạnh sức.
M’Drong Dăm đi săn bắn trong
rừng một năm. Tiếng tăm nàng H’ bia Sun xinh đẹp, nết na vang đến vùng
đất của Mtao Ak. Người ta đồn rằng vợ M’Drong Dăm đẹp người, tốt nết.
Bắp chân cong, nàng mặc váy jih. Ngón tay tài việc dệt thêu, giỏi
giang hết chỗ nói.
Mtao Ak nghe tin H’Bia Sun xinh
đẹp , bắp chân cong , mặc váy jih; ngón tay tài việc thêu dệt. Ông ta
muốn đi cướp nàng về làm vợ bé của mình. Mtao Ak dục dân làng
Mtao Ak:
– Chúng ta đi ngay, ơ chim
chích một ngàn, chim cu một trăm, bao nô lệ của ta đó đây. Hôm nay
chúng ta đi cướp sừng tê giác, giành ngà voi, của cải của kẻ giàu,
ta đi cướp nàng H’Bia Sun xinh đẹp.
Dân làng :
– Không được đâu ông Mtao Ak
ạ. Người ta đồn rằng M’Drong Dăm chồng H’Bia Sun xinh đẹp là người
hùng mạnh, hung hăng. Anh ta không biết sợ chết là gì.
Mtao Ak :
– Hỡi lũ nô lệ, hỡi các
chàng trai, sao các ngươi non gan, nhút nhát đến thế ? Các người chỉ
biết ngồi sưởi lửa trước háng đàn bà mà thôi. Nếu vậy thì ta để
lưỡi mác trên lưng, để con dao trên đầu. Ta sẽ giết các người tại đây.
Dân làng :
– Nếu ở lại thì sợ Mtao Ak
để lưỡi mác trên lưng, để dao trên đầu. Nếu đi sợ kẻ giàu có. Thôi,
chúng ta đành đi vậy.
Đám nô lệ vào rừng bắt
voi, tắm rửa cho voi sạch sẽ rôi thắng bành. Vừa làm xong, họ lại
nghe tiếng Mtao Ak dục
Mtao Ak :
– Nhanh lên các con.
Dân làng :
– Đi, chúng ta đi thôi, Mtao
Ak ! Ta đi cướp sừng te giác, giành ngà voi, đi cướp vợ người giàu. Ta
thử đi xem, người ta cướp vợ chàng M’Drong dăm ở trong buồng hai ngăn,
nhà có hai lớp phên, buồng có treo nhiều tua vải. Vợ M’Drong Dăm, H’Bia
Sun có chân cong, ngón tay giỏi thêu dệt áo, khố. Nàng là người xinh
đẹp giỏi giang. H’Bia Sun kéo chỉ sợi to bằng lông con trâu, dệt áo
sợi nhỏ như lông con bò, thêu thùa không ai sánh kịp.
Mtao Ak, lũ nô lệ, nài voi
lên đường. Họ đi qua mười đồi khum khum như lưng con rùa. Bao đêm rồi
không biết đến cơm nước. Nhiều ngày qua không có giọt rượu trong bụng.
Uống sương bụng kêu ọc ạch. Đi hết lên đồi tranh lại xuống khe khô. Đi
trên con đường rậm rập, không còn biết sống chết thế nào.
Mtao Ak và lũ tôi tớ đến
nương rẫy, bến nước của buôn làng M’Drong Dăm. Đến nơi nàng Sun tát
nước, bắt cá. Ông ta hỏi:
– Ơ lũ trẻ, kẻ giữ bò,
người chăn trâu ơi. Bến nước này của ai, buôn làng này của ai mà đẹp
quá vậy? Bến nước dựa vào sườn núi, buôn làng có núi non thoáng
mát như vậy.
Dân làng :
– Hỡi ông già Mtao Ak, sao
ông khinh người ta như khinh chó. Ông không biết, không nghe đây là bến
nước của cha nàng H’Bia Sun xinh đẹp sao? Họ là người đang giàu lên
từng ngày. Đầu họ đội khăn nhiễu dài. Cha H’Bia Sun chưa già yếu đã
có chồng nàng là M’Drong Dăm thay thế.
Mtao Ak :
– Hỡi lũ trẻ, hôm nay chồng
H’Bia Sun có nhà không?
Lũ trẻ :
– Không có đâu ! M’Drong Dăm
vắng nhà. Chàng vào rừng sâu săn bắn, chàng đi tìm thịt ngon, cá béo
cho H’Bia Sun ăn, cho nàng béo mập.
Bến nước tuyệt đẹp. Bến
nước to dần về phía dưới như đáy giỏ xúc cá. Bến nước sang láng.
Hòn đá tảng dựa lưng vào núi. Đàn bò như cá chín, đàn trâu như
những hòn đá biết đi. Voi ngoài rìa buôn đi ào ào. Mtao Ak nhìn thấy
cổng làng cao và vững chắc. Mtao Ak gặp bà aduôn Sun. Bà Sun, bà Sauê
cái đầu gật gật. Tóc bà trắng như bông hoa cỏ tranh, cằm bà dài,
răng thưa thớt.
Mtao Ak:
– Ơ bà aduôn Sun ơi, ai là
chủ bến nước. Ai là đầu gốc sung, cây đa ?
Aduôn Sun:
– Ôi sao ông lại không biết,
mọi người đều đã nghe tiếng tăm vang tận núi cao. Như múi thối của
con voi chết. Ông khôgn biết đây là bến nước của cha H’Bia Sun xinh đẹp,
nàng là vợ của M’Drong Dăm sao?
Mtao Ak:
– Chồng của H’Bia Sun có
nhà không hả bà?
Aduôn Sun:
– Tôi cũng không biết, bởi
vì nơi tôi sống như trong tay áo. Tôi sống ngoài hàng rào, chỉ nghe
thấy tiếng ching, tiếng trống rung từ xa. Đừng hỏi tôi. Ông đi hỏi thử
người đàn bà có đôi vú lệch đang giã bột. Ông hỏi thử người đàn bà
sa dạ con đang đứng giã men, đang sàng bột. Ba lần sàng đi rồi lại ba
lần sàng lại. Ông đi hỏi thử xem có khi họ biết nhà cha H’Bia Sun đấy.
Mtao Ak:
– Hỡi người đàn bà có đôi
vú lệch đang giã bột. Hỡi người đàn bà sa dạ con đang giã men, ba
lần sàng đi rồi ba lần sàng lại. Tôi muốn hỏi nhà M’Drong Dăm ở đâu
vậy?
Người đàn bà giã bột:
– Ôi, chúng tôi là đàn bà
có đôi vú lệch đang đứng giã gạo. Chúng tôi không biết nước non, cũng
khôgn biết hoa vàng hoa đỏ đâu. Chúng tôi càng không biết nhà M’Drong
Dăm, chồng nàng H’Bia Sun xinh đẹp ở đâu. Ông đến hỏi lũ trẻ đang gõ
quả bầu, lũ trẻ đang ngồi đánh mõ ống tre. Hỏi lũ trẻ đang làm nhà
chơi trên đất, có khi chúng biết đấy.
Mtao Ak:
– Hỡi lũ trẻ đang đánh quả
bầu, lũ trẻ đang dựng nhà trên đất. Các cháu chỉ đường nhà M’Drong
Dăm cho bác với.
Lũ trẻ:
– Ôi, chúng tôi là trẻ nhỏ,
chỉ biết gõ mõ, chỉ biết dnưgj nhà trên đất. Chúng tôi làm sao biết
được nhà M’Drong Dăm ở đâu. Ông đi hỏi lũ trẻ chăn bò, đi hỏi thử lũ
trẻ giữ ngựa, bọn trẻ chuyên chạy ngược chạy xuôi kia, biết đâu chúng
biết nhà M’Drong Dăm đấy!
Mtao Ak:
– Hỡi lũ trẻ chăn bò, coi
trâu, chăn ngựa. Các cháu có biết nhà M’Drong Dăm ở đâu không?
Lũ trẻ:
– Ôi chao ôi ! Chúng tôi là
kẻ chăn trâu bò hôi mùi cỏ, là kẻ chăn trâu hôi mùi bùn, làm sao biết
được nhà giàu. Kia, ông đến hỏi thử thằng đang ngồi chạn háng sưởi
lửa trấu, đêm ngồi như thế, sáng ngày cũng ngồi nhhư thế, có khi nó
biết đấy.
Mtao Ak:
– Hỡi chàng trai ngồi giơ
chân, giơ tay sưởi lửa trấu từ sáng đến chiều. Cháu có biết nhà
M’Drong Dăm ở đâu không?
Trẻ sưởi lửa:
– Tôi làm sao biết được? Tôi
là kẻ ngu dốt, chỉ ngồi sưởi lửa . Sáng ngồi thế này, đêm đến cũng
ngồi như thế. Nếu ông muốn biết, ông hãy hỏi lũ trẻ đang đào đất, đi
hỏi lũ trẻ đang nằm đầu cầu thang nhà giàu. Chúng chạy vào gian
trong rồi lại chạy ra gian ngoài. Có khi chúng biết nhà M’drong Dăm ở
chỗ nào.
Mtao Ak:
– Hỡi lũ trẻ ngồi đào
đất, lũ trẻ nằm đầu cầu thang, chạy vào gian trong rồi lại chạy ra
gian ngoài, cho tôi hỏi nhà anh M’Drong Dăm ở chỗ nào?
Lũ trẻ:
– Ôi, khách nào đấy? Khách
người Joăn mười, người trăm, người ngàn tất cả đều biết nhà nàng
H’Bia Sun xinh đẹp. Sao ông lại không biết ? Ông hãy nhìn cột hiên to
cao, ở dưới để nhiều bành voi, cầu thang rộng bằng ba chiếc chiếu,
người khiêng chiếu đi không chật, năm đứa trẻ đi xuống, ba người con
gái đi lên vẫn không đụng vào nhau. Gian trong giăng chỉ đỏ, gian ngoài
giăng chỉ vàng, trai lên xuống cầu thang như đàn ong đi lấy mật về làm
tổ. Đó là nhà H’Bia Sun, vợ M’Drong Dăm đấy.
Mtao Ak cho đầu voi ghé sát
hiên nhà cha H’Bia Sun. Mtao Ak nhảy từ trên đầu voi xuống hiên. Đàn heo
kêu, đàn chó sủa, lũ trẻ chạy tới nhìn khách và la ó.
H’Bia Sun:
– Ơ chim chích một ngàn,
chim cu một trăm, nô lệ trong nhà. Các người xem thử ngựa nhà ai lật
cầu thang. Các người ra xem thử con voi của ai đạp hiên làm ching ché
trong nhà đụng vào nhau kêu loảng xoảng?
Mtao Ak:
– Ơ em H’Bia Sun, người con
gái xinh đẹp nhất. Không phải ngựa làm đổ cầu thang nhà em. Không
phải voi đẹp hiên làm ching ché nhà em đụng nhau kêu loảng xoảng đâu.
Cha H’Bia Sun:
– Cha thấy người này có ý
đến thăm dò chồng con có ở nhà không. Họ muốn đạp thử nơi cột ngựa,
cột voi của chồng con đó, H’Bia Sun à.
H’Bia Sun:
– Người trai nào đấy? Đến
dọa nạt, ăn hiếp tôi sao? Tôi là đồ thối tha, người không ra người,
ngợm không ra ngợm. Tôi đến con chó cũng không thèm cắn, ngựa cũng
không hề hý để đón chào. Tôi mặc váy mới tới nửa chân, mặc áo cộc
tay, tai đeo khúc gỗ, vòng chân, như người con gái Bih, người Mnông.
Cha H’Bia Sun:
– Không, không phải người ta
thích con như thích quả chua, quả ngọt đâu. Không phải người ta thích
con như muốn ăn quả chua, canh ngọt đâu. Người ta không thích con từ hôm
qua, hôm kia. Ma quỷ ám chồng con. Người ta ghen tức chồng con. Họ muốn
nhóm lửa cây dầu rái, họ căm ghét chồng con. Sợ sau này chồng con sẽ
giàu sang. Bởi vậy mới có Mtao Ak nhảy từ đầu voi xuống hiên, từ hiên
nhảy đến ngưỡng cửa, từ ngạch cửa đến ghế kpan. Rồi nhảy từ đó
đến nơi đánh ching nhịp. Nhảy từ nơi đánh ching nhịp tới nơi đặt
trống. Từ nơi đặt trống nhảy đến buồng hai ngăn, buồng có hai lớp
phên, buồng treo nhiều tua xanh đỏ.
H’Bia Sun:
– Ơ chích một ngàn, cái
gùi của tôi bị rớt, tôi bỏ gùi. Ơ chim cu một trăm, tôi và chồng tôi
bị người ta ngăn cách. Hàng rào người ta đến phá, cấy cau người ta
đến chặt. Người ta đến đạp nơi để ching, ché, nơi buộc ngựa, voi, trâu
, bò. Người khách nào mà ta chưa từng gặp? Khách người Hrê ta chưa
từng thấy. Khách này là ai, mà dám xộc vào gian ngoài, dám vào gian
trong, vào buồng hai ngăn có lớp phên che. Người chăn bò có mùi cỏ,
kẻ chăn trâu có mùi bùn, người trông gà có mùi khăm khẳm như mùi khỉ?
Mtao Ak:
– Ơ H’Bia Sun, sao em lại dám
khinh người ta như vậy? Ta từng nằm trên võng như em đấy, như trai người
Lào. Chàng trai con nhà mtao Ea cũng nằm trong buồng nhiều ngăn như ta
đấy. Ta đẹp trai, yang ban cho giàu sang. Ta giàu sang, lại hùng mạnh.
Sao em dám khinh ta, em coi ta như con chó, em không biết ta là mtao Ak
sao?
H’Bia Sun:
– Nếu ông là khách giàu
sang thì ông phải ở gian ngoài, nếu là khách sang thì ngồi trên jhưng.
Nếu là khách qua lại thường ngày thì ngồi tạm bếp gian ngoài. Sao
ông lại đến nằm cửa buồng, mở nồi cơm?
Mtao Ak:
– Tôi đến đây thăm M’Drong
Dăm, em H’Bia Sun ạ.
H’Bia Sun:
– M’Drong Dăm đang sắn bắn
trong rừng, chàng tìm thịt ngon, cá béo. Chàng ăn óc trâu đã ngán, ăn
gan bò đã no, rượu đắng rượu ngọt uống đã nhiều. M’Drong Dăm nói
rằng ăn gan trâu khô, ăn gan bò có mùi thối, ăn thịt heo, gà có mùi
chua. Chàng muốn ăn gan bò rừng trên đồi tranh, muốn ăn gan con nai trong
rừng thưa, muốn ăn thịt hoẵng, thịt nai chạy quanh đồi, nên chàng cái
ná không rời vai.
Mtao Ak:
– Ta đến đây không có việc
gì đâu, chỉ muốn thăm M’Drong dăm thôi.
H’Bia Sun:
– Ông muốn gặp M’Drong Dăm
về chuyện gì hở Mtao Ak ?
H’Bia Sun xinh đẹp bắt đầu
ăn nói từ tốn với Mtao Ak. Nàng không còn chua chát nữa.
Mtao Ak:
– Thế này H’Bia Sun ạ. Tôi
đến đây không phải ức hiếp ai. Tôi đi buôn ché Tuk, tôi có con trâu đầu
bạc, nên tôi vội vàng đến đây để trao đổi.
H’Bia Sun:
– Ơ bác Mtao Ak. Không phải
vì con trâu, con bò, trai với gái như ching vừa mới treo, như cây con
mới mọc. Chúng tôi ăn ở với nhau chưa bao ngày, nuôi gà chưa được một
năm, nuôi heo chưa hết mùa xuân, dạy bảo dân làng cũng chưa hết năm.
Bác đến đây mang theo những thứ gì. Có phải bác đi buôn ching, thanh
la, bác bán thuốc lá hai gùi? Bác nói muối có hai bọc. Bác bảo đi
tìm khung dệt, đi đổi con trâu đực. Bác Mtao Ak ơi, chờ M’Drong Dăm đi săn
bắn về, việc gì cần bàn thì bác bàn. Còn tôi không biết gì hết,
vì tôi là con gái. Ơ chim chích một ngàn. Ơ chim cu một trăm. Bao ngời
trong nhà, các người lấy gạo trắng nấu cơm, đập con gà mái ấp, cột
rượu ché tuk để ta đãi bác mtao Ák.
Người kể chuyện:
Ơ chim chích một ngàn, ơ
chim cu một trăm, nô lệ trong nhàd, người nấu cơm, kẻ thui gà, người
buộc rượu. Cơm dọn ra, canh để trong bát mang ra cho Mtao Ak. Mtao Ak gọi
H’Bia Sun đến cùng ăn với mình, nhưng nàng không đến. Mtao Ak ăn một
mình. H’Bia Sun cột rượu ché ba đãi Mtao Ak. Cơm nước xong xuôi, Mtao Ak
ra ngồi bên ché rượu, ông ta gọi H’Bia Sun:
– Ơ H’Bia Sun. Đến đây ngồi
chơi và uống rượu cùng tôi. Uống một lúc thôi. Sáng mai tôi đi về.
Trời gần tối rồi.
H’Bia Sun:
– Tôi bây giờ đã già nua,
mắt kém, thân héo như cây thuốc lá trong vườn. Tôi nghèo, váy mặc
ngắn cũn, áo mặc còn hở cánh tay. Hoa tai đeo ngược. Chân tôi mỗi chân
đeo một vòng như thế này. Miệng môi tôi cong queo hôi mùi nhựa cây
thuốc lá.
Mtao Ak :
– Này H’ Bia Sun, sao em khinh
tôi như khinh chó, em không biết nhìn người hay sao?
Mtao Ak gọi H’Bia Sun uống
rượu. Ông ta nài nỉ như chó đực theo chó cái. Mtao Ak nói mãi H’Bia
Sun nghe bùi tai nên ra cùng uống rượu với ông ta ở gian ngoài. Mỗi
người uống hết một sừng nước. Uống xong H”Bia Sun trở về buồng nằm
nghỉ.
Mtao Ak:
– Ngồi chơi đã nào em H’Bia
Sun, chúng ta chưa kịp nói chuyện. Sao em khinh tôi như khinh chó, ngó
tôi như ngó người dưng? Rượu uống chưa nhạt. Uống rượu chưa say đã vội
đi nằm.
H’Bia Sun:
– Bác ngủ đi, trời khuya
rồi. Bác ngủ cho khỏe ngày mai còn về.
Mtao Ak nằm ngủ một mình ở
gian tiếp khách. Vừa nghe râm ran tiếng gà gáy lần thứ nhất, Mtao Ak
đã thức dậy gọi nài đi bắt voi, mắc bành để đi về. Ông ta gọi:
– Hỡi nài voi, dậy đi bắt
voi để ta về thôi
Nài voi:
– Ơ ông chủ ơi, trời chưa
sáng đâu, làm sao thấy đường mà mắc bành voi. Trời sáng chúng tôi mới
mắc bành voi được ông ạ.
Mtao Ak ngồi dậy hút một,
hai hơi thuốc chờ trời sáng. Đến khi trời sáng rõ, đám nài mới bắt
đầu mắc bành voi. Mắc xong, nài mời Mtao Ak lên voi đi về. Nhưng con voi
mới đi đến bến nước của buôn H’Bia Sun thì Mtao Ak đã bảo nài cho voi
trở lại, ghé vào hiên nhà H’Bia Sun:
– Ơ nài voi, quay đầu voi
trở lại nhà H’Bia Sun đi, ta để quên con dao ở ghế kpan, nơi đánh ching
của cha H’Bia Sun rồi.
Đám nài voi tưởng chủ nói
thật, liền cho voi quay lại nhà của cha nàng H’Bia Sun. Mtao Ak gọi
nàng:
– Ơ H’Bia Sun, vợ M’Drong Dăm
ơi. Cháu đưa giúp con dao của ta bỏ quên ở ghế đánh ching kia đi.
H’Bia Sun:
– Ơ bác Mtao Ak, tôi không
mang cho bác đâu. Tôi đang bận dệt vải, con đang địu trên lưng. Bác
xuống voi vào nhà mà lấy đi.
Mtao Ak làm như rất cần con
dao, lại như rất vội. Ông ta thúc nài như muốn đi về ngay. Thấy vậy
H’Bia Sun đứng dậy cầm con dao ra đưa cho Mtao Ak. Ông ta bảo H’Bia Sun giơ
dao đến gần đầu voi một chút. H’Bia Sun dướn người lên cho gần hơn,
chờ lúc thuận tay, Mtao Ak năm slấy ta nàng và kéo ném lên bành voi,
rồi bảo đám nài quay đầu voi chạy nhanh về hướng buôn mình.
H’Bia Sun bị Mtao Ak cướp
giữa ban ngày, chân tay bị trói chặt. Nàng vừa giãy giuạ vừa than
khóc gọi cha mẹ. Nàng nói với búi tóc cua rmình hãy bay đến nơi
M’Drong Dăm đang săn bắn, nơi rừng rậm núi cao, nói cho chàng biết vợ
ở nhà đã bị người ta cuớp mất rồi. Búi tóc của H’Bia Sun liền biến
thành con chim cu có lông màu đen, buổi sáng bay trên sườn đôi, buổi
trưa cất tiếng gáy. Chim bay chầm chậm qua đồi tranh, qua rừng thưa.
Chim cu vừa bay vừa hót liên hồi “cúc cu, cúc cu”. Con chim cu hót mãi
trên đồi cỏ tranh, chim chèo bẻo, chim bồ chao cũng kêu, hót liên hồi.
Chúng hót gọi M’Dong Dăm ở rừng cao, nơi lắm muông thú, nơi thú rừng
chưa hề biết hơi người. Bầy chim bay đã đến lán của M’Drong Dăm và
những người đi săn bắn. Chim bay đến lán liền cất tiếng hót “ cúc cu,
cúc cu, M’Dong Dăm mải đi săn bắn, nàng H’Bia Sun ở nhà bị người ta
cướp đi rồi”. M’Drong Dăm đnag nằm trong lán nghe tiếng chim kêu, chàng
gọi mọi người cùng nghe:
– Hỡi lũ trẻ, ơ cháu con.
Các người nghe xem có phải tiếng gà cục tác, tiếng trẻ con khóc,
tiếng của trai làng đang vang ngoài kia không?
Lũ trẻ:
– Ơ ông, chúng tôi chỉ nghe
tiếng chim hót vu vơ thôi.
Nô lệ và những người đi săn
không ai hiểu tiếng chim hót nói điều gì.Con chim vẫn cứ cất tiếng
hót “cúc cu, cúc cu…”. Tất cả bày chim đang đậu trên cấy đều hót như
thế. Ngay cả tai M’Dong Dăm nghe hai ba lượt cũng vẫn như thế, chim cu
hót “Mdrong Dăm mải đi săn để H’Bia Sun ở nhà bị kẻ ác cướp đi rồi”.
M’Drong Dăm:
– Hỡi chim chích một ngàn,
chim cu một trăm. Người xách ống tên, vác ná. Chúng ta trở về buôn
làng thôi. Thịt heo rừng bỏ lại xương. Con diều hâu đến đuổi chúng ta
đấy. Ta sẽ giết hết kẻ xấu ngay tại bãi chăn trâu bò của chúng.
Lũ trẻ:
– Có chuyện gì ông ơi. Bà
H’Bia Sun xinh đẹp của chúng ta bị người ta cướp rồi ư?
M’Drong Dăm:
– Đấy chim cu hót, nóa bảo
rằng bà của các con ở nhà đã bị kẻ ác đến cướp đi rồi. Hỡi lũ
trẻ, con cháu, kẻ coi bò, giữ trâu, mắc bành voi đi! Các con cưỡi voi
về sau, ta phải về trước ngay đây.
Nói rồi M’Drong Dăm liền
nhảy một bước. Chàng nhảy đẹp như chàng trai người Hrê, tay cầm ná,
lưng đeo ống tên, vai vác cây xagac to. Một hòn núi chàng chỉ một lần
nhảy, gặp thác nước chỉ một lượt đã qua. Một lần nhảy cao bằng
ngọn cây ênắt, nhảy qua ngọn cây knia, thân chàng tận mây xanh, mây
trắng. Về đến nhà chàng lên cầu thang làm ngôi nhà lắc lư, nồi niêu
của cha mẹ H’Bia Sun va vào nhau lách cách như trâu bò húc nhau. M’Drong
Dăm nghe tiếng mẹ H’Bia Sun khóc thảm thương. Bà khóc điệu khổ, điệu
buồn vì mất đứa con gái thương. Thấy mẹ H’Bia Sun khóc thảm thiết,
M’Drong Dăm nói:
– Sao mẹ khóc đầy nhà, như
có yang ác, ma quỷ ở đâu đó? H’Bia Sun đi mình trần, khăn áo còn treo
ở nhà, H’Bia Sun chết rồi sao mẹ? Mẹ đừng vội trách, mẹ đừng vội
la. Mất kim ta phải đi tìm. Con sẽ đi lùng theo dấu vết. Con dốc ngược
thân mình để tìm bằng được H’Bia Sun. Nếu đi lần này sống thì con ăn
lúa. Chết thì con ăn đất sỏi, sẽ đầu thai vào kiếp khác. H’Bia Sun
với con máu đã đỏ lược, trái cây độc chết cùng một lần, sống cùng
mốt ố nên con phải liều mình như thế. Mẹ đừng vội khóc để khổ, để
nghèo. Con và H’Bia Sun sống không trách đàn bà, chết không trách đàn
ông. Con và H’ Bia Sun chết nằm chung một hòm, chung một cái nhà mồ
dài cao.
Mẹ H’Bia Sun vào bếp thui
gà, nấu cơm nếp trong một cái bin. Còn M’Drong Dăm lo mài giáo mác,
chùi khil để mang đi. Ăn uống xong, chàng lên đường đi tìm H’Bia Sun.
M’Drong dăm một mình một ngựa lần theo dấu chân ngưa, chân voi, theo con
đường Mtao Ak dẫn nàng H’Bia Sun đi. Qua rừng, lên núi cao, chàng lật
đá và đi theo hang động. Đến buôn làng Mtao Ak chàng gọi lớn:
– Ơ lũ trẻ, con cháu, kẻ
giữ bò, người chăn trâu, người giữ nhà, ai là người gác cổng buôn
Mtao Ak?
Mtao Ak:
– Ơ lũ trẻ nhỏ, các cháu
nghe thử, gà nhà ai cục tác, con ai khóc, tiếng rèn búa của ai ngoài
kia.
Trong lúc đó H”Bia Sun đang
bị trói tay, cùm chân. Nàng khóc. Nước mắt chảy xuống gông cùm, người
ta giữ nàng như giữ bò, giữ trâu.
M’Drong Dăm:
– Ơ lũ trẻ, hãy mở cổng
sắt cho tôi vào để thăm chú bác tôi.
Mtao Ak:
– Ơ lũ trẻ. Con gà nhà ai
cục tác. con ai khóc, tiếng rèn bủa của ai ngoài kia? Con gà trống
mào đỏ nào đến đây đê rlấy ching, ché, cọc buộc ngựa, voi. Hỡi lũ
trẻ, hãy đi xem thử. Nếu gặp khách yếu vía thì mở cổng cho vào.
Nếu gặp khách hùng mạnh thì các cháu đóng thêm chốt cho chặt nhé.
M’Drong Dăm càng gọi thì
tiếng đóng cổng cài then càng vang to hơn. Chàng dùng hết sức mạnh xô
hàng reo một lần, hàng rào ngã rạp. Chàng đá bằng chân, ba lớp rào
bị xiêu. Chàng áp người, bảy lớp rào bị đổ. Chàng gọi to:
– Ơ bác Mtao Ak. Sao bác dám
bẻ ngà ở miệng voi, nhổ sừng trên đầu tê giác. Sao bác lại dám cướp
vợ tôi ngay ở trong buồng.
Nghe tiếng chàng H’Bia Sun
khóc lóc. Tiếng khóc của nàng mỗi lúc một to hơn. M’Drong Dăm nói:
– Em H’Bia Sun ơi, để cho nó
ăn gan trâu bò rồi anh chặt đầu nó quăng cho thần nước, chặt đùì ném
cho thần núi, xác nó để cho lũ kền kền, lũ quạ rỉa suốt ngày đêm.
Thịt nó ném ra bụi cỏ tranh, xương ném xuống thác nước. Chân tay nó
đưa cho thần Tlúa, máu nó đưa cho thần kbua, cho đấy hút, lũ ma quỷ
uống. Để cho nó không còn hung hăng nữa. Ơ Mtao Ak. Xuống đi. Tôi muốn
nói cười với bác đây.
Mtao Ak:
– Cháu hãy ra khỏi buôn
làng của ta. Nếu không ta sẽ cho nô lệ khỏe mạnh đến giết chết cháu
ngay tại bãi trâu bò. Ta tiếc cháu như cây tre còn non M’Drong Dăm ạ.
M’Drong Dăm:
– Tôi không đi đâu. Bác phải
trả vợ cho tôi trước đã. Nếu không tôi sẽ chém bác, chặt cổ bác
bằng giáo mác đang cầm trong tay đây.
Mtao Ak ra tới hiên nhà,
M’Drong Dăm đứng sẵn trên sàn, chờ đọ đao, múa khil với ông ta. Mtap Ak
coi khinh chàng, coi như đứa trẻ mới cao bằng đầu gối, còn chui qua
háng người lớn. Ông ta khinh chàng như khinh con chó, không thèm dùng
khil đao, ngoay ngoáy chạy vào gian trong. M’Dong dăm tức giận đến tận
cổ. Chàng liền dùng tay rút cây xà dưới sàn, làm nhà Mtao Ak rung
rinh, nghiêng cột nhà từ trong ra ngoài. Mtao Ak tức giận liền gọi nô
lệ đánh M’Drong Dăm. Chàng đứng nguyên tại chỗ xoay chiếc khil. Gió
khil của chàng làm cho bọn nô lệ ngã la liệt trước sân nhà. Năm lần
đứng dậy là năm lượt ngã xuống. Bảy lần xông tới là bảy lần run
rẩy sợ hãi. Lũ nô lệ không dám xông vào chàng nữa. Mtao Ak lại gọi
những nô lẹ khỏe hơn, có tài hơn, cũng vẫn bị gió khil của chàng
đánh bạt đi, ngã hết. Mtao Ak kêu nấu cơm nồi bung nồi bảy để nô lệ
ăn đánh nhau với M’Drong Dăm vẫn không thắng nổi chàng. Chàng gọi:
– Tôi muốn bác Mtao Ak xuống
sân này. Sao bác không dám xuống?
Mtao Ak hét nô lệ mang khil
đao tới, nhảy xuống đất định chém M’Drong Dăm, nhưng lưỡi đao của ông
ta chém không trúng. Mtao Ak liên tục đuổi đánh M’Drong Dăm. Chàng chạy
quanh chuồng heo, ông ta chém nát chuồng heo. Chàng chạy quanh chuồng
bò, ông ta chém nát chuồng bò, làm heo bò của ông chết la liệt.
M’Dong Dăm nấp dưới bụng voi, Mtao Ak chém voi đứt đôi. Nấp dưới gầm
nhà, ông ta chém chết con trâi đực buộc ở đó. M’Drong vừa chạy nhảy,
trêu chọc vừa chế nhạo:
– Tiếc con voi quá. Sao bác
lại chém voi đực nhà mình vậy? Tiếc con trâu quá ! Sao bác lại chém
trâu nhà mình?
Mtao Ak khát khô cả cả họng
liền gọi H’Bia Sun đem nước uống:
– Ơ em H’Bia Sun, hãy đem
nước cho ta uống. Cởi trói cho H’Bia Sun đi các con.
Trong lúc nô lệ mở trói cho
H’Bia Sun, Mtao Ak lại đòi ăn cơm nếp. H’Bia Sun ném cục cơm nếp, Mtao Ak
chưa kịp bắt đã bị M’Drong Dăm tóm mất. Bà vợ cả của ông ta cầm cục
cơm ném tiếp cho chồng:
– Đây cục cơm nếp của Mtao
Ak, chồng tôi ăn đi để có sức chém M’Drong Dăm.
Mtao Ak đưa tay ra đón lấy
cục cơm nếp, nhưng M’Drong dăm đã ngưa rcái khil ra đón lấy. Chàng vừa
ăn vừa lia đao, múa khil. Gặp bảy hòn núi chàng chỉ nhảy một cái là
qua. Gặp bảy thác nước chàng chỉ nhún một lần là vượt qua, nhảy
tiếp từ đồi này sang đồi kia. Chàng luồn qua cả đám mây đen, chỉ
loáng thoáng thấy tua khố bay theo trong mây. Mtao Ak than:
– Bác không bằng cháu nên
mệt rồi cháu ạ. Bác nghỉ đây.
– Hai bác cháu ta cùng nghỉ
vậy.
Mtao Ak nghỉ ngơi ăn cơm hút
thuốc, ngủ thiêm thiệp một chút. Sau đó dậy lại hút thuốc, ăn cơm
nếp, uống nước. Xong rồi bảo M’Drong Dăm tiếp tục đuổi đánh nhau. Mtao
Ak bắt đầu nhảy . Ông ta nhảy như khúc gỗ, như người ta treo đá ở
chân, như ai treo cối giã gạo ở vai. Đưa tay về phái Tây làm vỡ bầu
nước, đưa chân về phía đông cũng làm vỡ bầu nước. Ông ta kếu khát
nước. M’Drong Dăm bảo :
– Người bác ốm yếu, lại
không giỏi khil đao. Sao bác lại dám đi bắt tê giác. Bác là kẻ già
nua, mắt mờ, thân thể dần héo hon, sao bác lại dám bắt con cọp, con
gấu? Bác có biết M’Drong dăm như heo đang lớn, như chó điên bị đau
không?
Mtao Ak:
– Bác nghe tin từ nơi này
đến nơi khác chỉ có H’Bia Sun là xinh đẹp. Bác thích nàng như thích
quả chua, ưa nàng như ưa quá ngọt. Thích nàng từ ngày hôm qua, hôm kia
rồi.
M’Drong Dăm:
– Bác thích nàng như thích
qua rchua, như ưa quả ngọt. Sao bác không thích từ hồi nàng còn son
trẻ, như quả mít, quả soài mới lớn. Sao lúc đó bac không đi dắt nàng
về.
Nói rồi chàng cầm khil đao
đuổi đánh Mtao Ak . hắn trốn trong chuồng heo, lũ heo đuổi cắn, chạy
vào chuồng bò, đàn bò đuổi húc, dựa vào thân voi, con voi đá. Mtao Ak
trốn vào dâu M’Drong dăm cũng chém tan tành nơi đó. Trốn dưới gầm
nhà, các cột bị chém gãy đôi. Nha flớn nhà nhỏ trong buôn bị gió
khil chàng làm cho tốc mái bay hết. Cho dù được vợ cả đem cơm đem
nước, mang thuốc cho hút, Mtao Ak cũng không địch lại nổi vì H’ Bia Sun
cũng mang cơm, nước và thuốc hút tiếp sức cho M’Drong Dăm. Sau lần
nhảy cuối cùng, chàng chém trúng bắp chân ông ta, máu tràn ra khắp
nơi. Lần nhảy thứ hai chàng chém đứt cánh tay, Mtao Ak ngã gục xuống.
Tiếng kêu khóc vang lên thảm thiết.
M’Drong Dăm nói:
– Ơ bác Mtao Ak ơi! Trống tôi
đánh kêu to, tù và tôi thổi vang. Vải xanh vải đỏ tôi phơi khắp nơi.
Ngựa đực có theo ngựa cái; trai gái trong làng có đi theo tôi không?
Dân làng:
– Ơ anh M’Drong Dăm. Nếu ngựa
đực không theo ngựa cái; con trai con gái nếu không đi theo ông thì ai
sẽ trông coi chúng tôi. Trâu bò ai gìn giữ, cây đổ phải đi theo ván
dài thôi.
Vậy là tất cả các nô lệ
của Mtao Ak đều theo về buôn của cha nàng H’Bia Sun. Họ kéo đi đông như
bầy hươu, ùn ùn như đàn kiến, nhi nhúc như đàn mối. Ngày đi, đêm
nghỉ, đi liền ba ngày mới tới buôn làng của H’Bia Sun.
Từ đó, nàng H’Bia Sun xinh
đẹp chỉ ở trong nhà. Nhà M’Drong Dăm ăn năm uống tháng triền miên, cho
đến khi bước vào mùa rẫy mới.
Lần đầu tiên, các nhà nghiên cứu
đã phát hiện ba (3) bộ “Sử Thi Liên Hoàn Tây Nguyên” hay còn gọi là “Sử Thi Chuỗi”,
sử thi phổ hệ đồ sộ của các dân tộc M'Nông, Ba Na và Xê Đăng.
Mỗi bộ sử thi chứa khoảng 100
tác phẩm và đây được đánh giá là một trong số những bộ sử thi thuộc loại dài nhất
thế giới.
Để thực hiện được dự án trên,
đã tiến hành khảo sát hàng nghìn buôn, bon, plây của 530 xã, phường, thị trấn
thuộc 56 huyện, thành phố của 5 tỉnh Tây Nguyên gồm Đác Lắc, Đác Nông, Gia Lai,
Kon Tum, Lâm Đồng và ba tỉnh vùng phụ cận gồm Bình Phước, Ninh Thuận, Khánh
Hòa, Phú Yên.
Các nhà nghiên cứu đã lập được
danh sách hàng trăm tên tác phẩm sử thi, gặp gỡ 363 nghệ nhân còn nhớ, hát kể
các tác phẩm sử thi thuộc các dân tộc Êđê, Gia Rai, M'nông, Xê Đăng, Ba Na, Xê
Tiêng, Mạ, Raglai, Chăm Hroi. Đáng chú ý, có những
nghệ nhân thuộc 5-6 bộ sử thi và có những nghệ nhân hát kể trên 10 sử thi như
già làng Điểu Klứt, Điểu Rung (dân tộc M'Nông), bà Mấu Thị Giêng (Raglai) thuộc
ba bộ sử thi đồ sộ với 150 giờ hát kể.
Các nhà nghiên cứu cho rằng khó
khăn nhất của những người làm công tác sưu tầm, phố biến văn hóa dân gian ở Tây
Nguyên hiện nay là không tìm được người phiên âm, phiên dịch các bộ sử thi này nên
khối lượng xuất bản còn ít. Trong khi đó, số nghệ nhân biết hát kể sử thi ngày
một già yếu, thậm chí có người đã qua đời.
Ba tác phẩm sử thi đầu tiên của
kho tàng sử thi Tây Nguyên được xuất bản gồm hai tác phẩm sử thi của đồng bào
dân tộc M'Nông, một tác phẩm sử thi của đồng bào Raglai.
"Sử thi chuỗi" hay
"sử thi liên hoàn" là một khái niệm chỉ một tập hợp lớn các sử thi, mỗi
bộ sử thi có thể bao gồm hàng chục, thậm chí hàng trăm tác phẩm riêng lẻ được
xâu chuỗi lại với nhau, thường là của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên như Ba
Na, M'nông, Xê Đăng. Khác với sử thi đơn lẻ, sử thi chuỗi có quy mô đồ sộ, phản
ánh hệ thống tri thức, lịch sử, và văn hóa của cả một cộng đồng qua nhiều thế hệ.
Đặc điểm của sử thi chuỗi:
Quy mô đồ sộ: Mỗi "bộ"
sử thi chuỗi chứa hàng trăm câu chuyện, tác phẩm riêng lẻ được kết nối, tạo
thành một kho tàng lớn.
Chủ đề đa dạng: Phản ánh lịch sử,
văn hóa, phong tục, tín ngưỡng, và những câu chuyện về anh hùng của một dân tộc.
Hình thức biểu diễn: Thường được
hát kể trong các dịp lễ hội, nghi lễ quan trọng, gắn bó mật thiết với nghệ thuật
biểu diễn sân khấu của các dân tộc.
Tính liên kết: Các câu chuyện,
sự kiện được xâu chuỗi lại, tạo thành một mạch truyện, một dòng chảy lịch sử và
văn hóa liên tục.
Sử thi chuỗi và các dân tộc Tây
Nguyên:
Kho tàng lớn: Các dân tộc Tây
Nguyên sở hữu kho tàng sử thi vô cùng phong phú và đồ sộ.
Vai trò gắn kết cộng đồng: Sử
thi đóng vai trò quan trọng trong việc gắn kết cộng đồng, giáo dục truyền thống
cho thế hệ sau, và thể hiện tinh thần, trí tuệ của dân tộc.
Tình trạng hiện nay: Do các nghệ
nhân biết hát kể sử thi đang già yếu hoặc qua đời, cùng với sự thay đổi của môi
trường sống và lối sống, nhiều bộ sử thi chuỗi đang dần mai một.
Sử thi Tây Nguyên, nhìn từ góc
độ sưu tầm.
Tây Nguyên là nơi phát sinh và
lưu truyền một loại hình văn hóa vô cùng độc đáo - văn hóa sử thi Tây Nguyên. Sử
thi ở đây tồn tại độc lập như một thể loại văn học. Nó càng thêm đặc biệt vì
đang 'sống' trong đời sống văn hóa của cộng đồng các dân tộc thiểu số bản địa
Tây Nguyên.
Giới nghiên cứu folklore nhiều
lần khẳng định, Tây Nguyên chính là vùng văn hóa sử thi. Từ góc nhìn liên văn
hóa - đặt sử thi bên cạnh các loại hình văn hóa tiêu biểu khác trong không gian
văn hóa Tây Nguyên như âm nhạc cồng chiêng, nghệ thuật điêu khắc gỗ, tín ngưỡng
vòng đời... sẽ rõ sự phân định vùng văn hóa sử thi cho Tây Nguyên của giới
nghiên cứu folklore hoàn toàn xác đáng, cả lý luận lẫn thực tiễn. Tây Nguyên là
nơi phát sinh và lưu truyền một loại hình văn hóa vô cùng độc đáo - văn hóa sử
thi Tây Nguyên. Sử thi ở đây tồn tại độc lập như một thể loại văn học. Nó càng
thêm đặc biệt vì đang "sống" trong đời sống văn hóa của cộng đồng các
dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên.
Nhà folklore Tây Nguyên Krajan
Plin cho rằng, với số lượng những sử thi đã công bố khoảng 100 sử thi, cộng
thêm những sử thi đã được sưu tầm nhưng chưa công bố cùng những sử thi đang tiếp
tục sưu tầm đã đủ cơ sở để khẳng định không một nơi nào trên đất nước ta lại có
nhiều sử thi như ở Tây Nguyên.
Từ công việc sưu tầm sử thi của
mình, nhà folklore Tây Nguyên Krajan Plin nhận thấy, vì là một thể loại văn học
dân gian, được lưu truyền bằng cách truyền miệng, nên khi sưu tầm cần lưu ý
tránh lối tư duy học thuật, lấy tư duy của người đương đại để diễn giải cách
nghĩ của người xưa. "Nếu không thận trọng, với lối tư duy học thuật, rất dễ
suy diễn chủ quan, dẫn đến việc diễn giải các tình tiết trong sử thi bị lệch lạc.
Bên cạnh đó, người sưu tầm cũng phải có sự am hiểu nhất định về đặc trưng thể
loại (ngôn ngữ sử thi), gốc tích của câu chuyện, nhất là biết đủ về các luật tục,
cùng lối diễn xướng bằng văn vần và văn xuôi, những câu đối thoại đậm tính hình
tượng của các nhân vật trong sử thi thì mới chuyển tải sát đúng với bản ngữ, giữ
được ở mức tối đa lối diễn tả ví von, ngôn ngữ giàu tính ngoa dụ, phóng đại"
- nhà folklore Tây Nguyên Krajan Plin chia sẻ.
Theo nhà folklore Tây Nguyên
Krajan Plin, sử thi thường được chia thành nhiều khúc, chương, đoạn. Mỗi
chương, đoạn, khúc mô tả một sự kiện, hoặc một chuỗi sự kiện, một nhân vật, hoặc
nhiều nhân vật liên quan đến sự kiện. Nhiều khúc, đoạn, chương như vậy xâu chuỗi
lại thành một sử thi hoàn chỉnh. Do vậy, người sưu tầm nên tự trang bị vốn ngôn
ngữ bản địa để thông nắm diễn tiến của câu chuyện, sự chuyển tiếp giữa các
chương, đoạn, khúc, cũng như những sự kiện mà nhân vật sử thi tham gia, hoặc bị
chi phối bởi những nhân vật khác, sự kiện khác. "Một lưu ý nữa đối với người
sưu tầm đó là sự biến âm trong cách gọi tên nhân vật. Ngoài ra, nhân vật cùng
tên không có nghĩa là cùng xuất hiện trong một sử thi" - nhà folklore Tây
Nguyên Krajan Plin nhấn mạnh.
Trong cuốn sách của mình
"Những mảng màu văn hóa Tây Nguyên", Công việc phiên âm, phiên dịch sử
thi Tây Nguyên ra tiếng Việt rất khó khăn. Bản phiên âm tiếng nói của người bản
địa Tây Nguyên, bên cạnh nguyên tắc giữ đúng lối diễn xướng sử thi, còn phải đảm
bảo lối tư duy của người xưa, rồi mới tìm cách chuyển ngữ sang tiếng Việt. Tiếp
cận sử thi Tây Nguyên, không nên dừng lại ở việc tiếp cận dưới góc độ văn học,
phải ở góc độ văn hóa. Như vậy, chúng ta mới cảm nhận được các nội dung xã hội,
văn hóa, lịch sử, nghệ thuật mà sử thi Tây Nguyên đã bao chứa.
Thể loại Sử thi.
Tìm hiểu về sử thi bao gồm các
nội dung: khái niệm, đặc trưng và cách phân loại sử thi giúp các em củng cố và
mở rộng kiến thức về thể loại sử thi.
Chiến thắng Mtao Mxây - Sử thi
Tây nguyên.
Tổng hợp các cách mở bài, kết
bài cho tác phẩm cho tác phẩm Chiến thắng Mtao Mxây.
Tổng hợp các bài văn nghị luận
về tác phẩm Chiến thắng Mtao Mxây.
1 . Khái niệm.
Sử thi là tác phẩm tự sự dân
gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng
nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hoặc nhiều biến cố lớn diễn ra
trong đời sống cộng đồng của cư dân thời cổ đại.
2 . Đặc trưng.
Nội dung của sử thi có tính rộng
lớn, kể về sự kiện trọng đại của quá khứ, biểu hiện toàn bộ đời sống văn hóa, lịch
sử của cộng đồng, thể hiện quá trình vận động của tộc người đó qua các giai đoạn
khác nhau.
Nghệ thuật: sử thi là những câu
chuyện kể văn xuôi xen lẫn văn vần, có sử dụng các yếu thành ngữ, tục ngữ, những
từ ngữ cổ, hình thức nghệ thuật ngôn từ dân gian.
3 . Phân loại sử thi.
a. Sử thi anh hùng dân gian.
- Ở dạng cổ xưa nhất của sử
thi, tính anh hùng còn hiện diện trong vỏ bọc thần thoại hoang đường (các dũng
sĩ không chỉ có sức mạnh chiến đấu mà còn có năng lực siêu nhiên, ma thuật, kẻ
địch thì luôn hiện diện dưới dạng quái vật giả tưởng). Những đề tài chính được
sử thi cổ xưa miêu tả: chiến đấu chống quái vật (cứu người đẹp và dân làng),
người anh hùng đi hỏi vợ, sự trả thù của dòng họ.
b . Sử thi cổ điển.
- Các dạng cổ điển của sử thi
có nhân vật thường là các dũng sĩ kiêm thủ lĩnh và các chiến binh đại diện dân
tộc ở tầm lịch sử; các kẻ thù của họ thường được đồng nhất với bọn xâm lược, những
kẻ áp bức, ngoại bang và dị giáo (như người Turk, người Tartar với
sử thi Slavơ).
- Thời gian sử thi ở đây khác với
sử thi dân gian, không còn là thời đại sáng chế các thần thoại, mà là quá khứ
vinh quang trong buổi bình minh của lịch sử dân tộc.
- Sử thi cổ điển là các nhân vật
và biến cố lịch sử, mặc dù bản thân sự miêu tả các chất liệu lịch sử bị phụ thuộc
vào sơ đồ cốt truyện truyền thống, đôi khi còn sử dụng cả mô hình nghi lễ thần
thoại.
- Các nền sử thi thường là các
cuộc đấu tranh của hai bộ lạc hoặc bộ tộc, sắc tộc ít nhiều tương ứng với sự thật
lịch sử (như cuộc chiến Troia trong Iliad, việc tranh đoạt Sampo trong Kalevala).
Quyền lực được tập trung trong các nhân vật trung tâm có hành động tích cực là
các ông vua của thế giới sử thi (như Karl Đại Đế trong bản Anh
hùng ca Roland), hay các dũng sĩ. Các nhân vật nổi loạn, cách mạng xung đột
với quyền lực (Akhillos trong Iliad, Đăm San
trong khan Êđê, Robin Hud trong thiên ballade của Anh, các nhân vật
trong Thủy hử ở Trung Hoa) xuất hiện ít ỏi trong giai đoạn tan rã
hình thức cổ điển của sử thi anh hùng.
c. Sử thi anh hùng.
- Những anh hùng ca, với tư
cách là các tác phẩm sử thi anh hùng cỡ lớn, thể hiện sự tương quan giữa yếu tố
cá nhân anh hùng và yếu tố sử thi tập thể rõ rệt, đủ để bộc lộ tính tích cực cá
nhân, đã trở thành công cụ đắc lực cho sự biểu hiện yếu tố toàn dân, và dân tộc.
- Trường ca sử thi "về thực
chất có liên quan đến thời trung đại, khi dân chúng tỉnh dậy từ giấc ngủ nặng nề,
nhưng tinh thần thì đã cứng cáp đến mức tạo được thế giới riêng của mình và tự
cảm thấy mình gắn bó máu thịt với thế giới ấy... Khi bản thân cái cá nhân được
giải phóng khỏi khối vẹn toàn dân tộc khởi thủy với trạng thái chung, lối nghĩ
lối cảm chung, hoạt động và số phận chung, thì thay cho thơ ca sử thi những cái
sẽ phát triển chín muồi hơn cả một mặt là thơ và mặt khác là kịch"
(Hegel).
Sử thi Văn Hóa Êđê.
Mdrong Damtóm tắt cốt
chuyện: M’Drong Dăm là con của nàng H’ Bia Knhí và chàng Dăm Bhu giàu
có. Chàng có vợ là nàng H’Bia Sun xinh đẹp. Sắc đẹp của nàng khiến
các tù trưởng quanh vùng ghen tỵ. Lần lượt đợi những lúc M’Drong Dăm
vắng nhà, các tù trưởng Mtao Ak, Mtao Anur và Mtao Kuăt lại đến kiếm
cớ đến thăm chơi nhà, lừa bắt H’Bia Sun. Nhờ mái tóc dài của H’ Bia
Sun biến thành chim cu báo tin, M’Drong Dăm đánh nhau với các từ trưởng
trên, giành lại được vợ mình.
Người kể chuyện:
Ching nhà M’Drong Dăm không
rời khỏi xà dọc. Rìu rựa không rời khỏi cán. Đầu trâu bò phơi khô
không kể ngày đêm. Họ đánh ching cùng một nhịp, đánh trống đôi cùng
một hơi. Nhà giàu ăn năm uống tháng không dứt tiếng ching. Họ uống
rượu, nước tràn xuống gầm nhà, làm con ếch trắng phải kêu, con nhái
kêu inh ỏi dưới gầm nhà sàn. Đến lúc đó nhà M’Drong Dăm mới cởi
ching, gỡ ché. Mùa ăn năm uống tháng tạm ngừng. Nhà M’Dong Dăm ăn năm
uống tháng đã dứt. Chàng gọi:
– Ơ chim chích một ngàn,
chim cu một trăm, bao nô lệ của ta ơi! Nào chúng ta hay đi hạ cây mruah
làm cánh ná, thân ná ta làm bằng cây kbla. Ta tìm cây nào cứng dẻo
và thẳng nhất, ta bắn con hoẵng chết tại gố cây ksa, bắn con nhím
chết dưới gốc cây đa, bắn heo rừng, con nai chết la liệt.
H’Bia Sun :
– Ơ anh M’Drong Dăm. Anh cứ đi
đến khu rừng mà anh muốn. Cây ktu, cây kbla anh cứ hạ đi.
M’Drong Dăm :
– Nào, chúng ta đi. Hỡi chim
chích một ngàn, chim cu một trăm, bao nô lệ đó đây ơi. Chúng ta đi nườm
nượp như đàn hươu. Chàng trai cầm cây ná, các cô gái xếp nồi cơm. Ơ
chị, ơ em, chúng ta đi thôi ! Ta đi đến nơi rừng thưa thoáng gió, mát
mẻ. Ta đi săn bắn. Chúng ta đến núi cao, gai cỏ tranh đâm bàn chân, gai
mây đâm bàn tay. Ta tìm thịt ngon, cá béo. Đên skhu ràng vắng, nhiều
hươu nai, chim chóc là chỗ chúng ta săn bắn đấy.
Dân làng :
– Ơ chồng H’Bia Sun ! ta đi
vào khu rừng xa buôn làng. Chúng tôi mệt quá. Còn H’Bia Sun ta không
ngó, ta bỏ H’Bia Sun ăn củ mài. Chúng tôi sợ có kẻ giàu sang hùng
mạnh đến cướp mất nàng.
M’Drong Dăm:
– Ơ chim chích một ngàn,
chim cu một trăm, nô lệ của ta. Các người đừng vội ngã giữa đường,
đừng vội tin, đừng vội nghĩ đến thần linh. Chỉ sợ gặp phải tiếng
chèo bẻo hót, chim bồ chao la ta mới kiêng cữ.
Dân làng :
– Anh M’Drong Dăm, đi vào
rừng thưa, đi lên núi cao thoáng mát, trên đường đi bị gai tranh đâm
chân. Gai mây đâm tay.
M’Drong Dăm dẫn mọi người đi
tìm ơi nào thấy thú ăn trái cây knia, đi tìm hươu nai đang tắm ở đầm
lầy, tìm bò tót, con min đang ăn cỏ non. Nên chàng dẫn họ đến núi
thoáng, rừng đẹp, đến nơi rừng hoang, nơi ấy muông thú chưa hơi người,
chuột sóc chưa biết ăn lúa bắp. Núi nối núi, rừng giáp rừng. Những
đồi nhấp nhô, núi cao có gió thoáng mát. Ở nơi đó nhìn thấy con
hoẵng đứng nghiêng nghiêng, đàn hươu nhi nhúc, con mang đứng đầy rừng
non, quanh gốc cây knia. Đấy là khu rừng M’Drong Dăm muốn săn bắn.
M’Drong Dăm:
– Hỡi lũ trẻ giữ bò, coi
trâu, hãy vào rừng tìm cây, cắt tranh làm lán. Ta nghỉ ở đây để sắn
bắn.
Sau khi dựng lán xong,
M’Drong Dăm bắt đầu đi săn bắn. Chàng đi từ sáng đến tối mới về lán.
Băn con bò rừng chết nằm la liệt ở ba đồi tranh, bắn con nai chết
nhiều vô kể, bắn bò rừng, con min chết khắp núi đá. Về đến lán.
M’Drong Dăm gọi mọi người.
M’Drong Dăm:
– Ơ chim chích một ngàn,
chim cu một trăm, nô lệ đó đây. Hãy nướng và phơi thịt khô đi.
Sau khi phơi thịt trên dàn
bếp đã khô, M’Drong Dăm lại giục mọi người:
– Hỡi trẻ nhỏ, con cháu,
kẻ chăn bò, người chăn trâu. Các người hãy đem thịt khô về cho H’Bia
Sun xinh đẹp. Ở nhà nàng đã chán ăn óc trâu, ăn gan bò, rượu ngọt,
rượu chua cũng chán rồi.Nàng muốn ăn gan con nai, sừng vừa đúng một
sải tay. Nàng ăn thịt bò rừng, thịt nai mới khỏe người, mạnh sức.
M’Drong Dăm đi săn bắn trong
rừng một năm. Tiếng tăm nàng H’ bia Sun xinh đẹp, nết na vang đến vùng
đất của Mtao Ak. Người ta đồn rằng vợ M’Drong Dăm đẹp người, tốt nết.
Bắp chân cong, nàng mặc váy jih. Ngón tay tài việc dệt thêu, giỏi
giang hết chỗ nói.
Mtao Ak nghe tin H’Bia Sun xinh
đẹp , bắp chân cong , mặc váy jih; ngón tay tài việc thêu dệt. Ông ta
muốn đi cướp nàng về làm vợ bé của mình. Mtao Ak dục dân làng
Mtao Ak:
– Chúng ta đi ngay, ơ chim
chích một ngàn, chim cu một trăm, bao nô lệ của ta đó đây. Hôm nay
chúng ta đi cướp sừng tê giác, giành ngà voi, của cải của kẻ giàu,
ta đi cướp nàng H’Bia Sun xinh đẹp.
Dân làng :
– Không được đâu ông Mtao Ak
ạ. Người ta đồn rằng M’Drong Dăm chồng H’Bia Sun xinh đẹp là người
hùng mạnh, hung hăng. Anh ta không biết sợ chết là gì.
Mtao Ak :
– Hỡi lũ nô lệ, hỡi các
chàng trai, sao các ngươi non gan, nhút nhát đến thế ? Các người chỉ
biết ngồi sưởi lửa trước háng đàn bà mà thôi. Nếu vậy thì ta để
lưỡi mác trên lưng, để con dao trên đầu. Ta sẽ giết các người tại đây.
Dân làng :
– Nếu ở lại thì sợ Mtao Ak
để lưỡi mác trên lưng, để dao trên đầu. Nếu đi sợ kẻ giàu có. Thôi,
chúng ta đành đi vậy.
Đám nô lệ vào rừng bắt
voi, tắm rửa cho voi sạch sẽ rôi thắng bành. Vừa làm xong, họ lại
nghe tiếng Mtao Ak dục
Mtao Ak :
– Nhanh lên các con.
Dân làng :
– Đi, chúng ta đi thôi, Mtao
Ak ! Ta đi cướp sừng te giác, giành ngà voi, đi cướp vợ người giàu. Ta
thử đi xem, người ta cướp vợ chàng M’Drong dăm ở trong buồng hai ngăn,
nhà có hai lớp phên, buồng có treo nhiều tua vải. Vợ M’Drong Dăm, H’Bia
Sun có chân cong, ngón tay giỏi thêu dệt áo, khố. Nàng là người xinh
đẹp giỏi giang. H’Bia Sun kéo chỉ sợi to bằng lông con trâu, dệt áo
sợi nhỏ như lông con bò, thêu thùa không ai sánh kịp.
Mtao Ak, lũ nô lệ, nài voi
lên đường. Họ đi qua mười đồi khum khum như lưng con rùa. Bao đêm rồi
không biết đến cơm nước. Nhiều ngày qua không có giọt rượu trong bụng.
Uống sương bụng kêu ọc ạch. Đi hết lên đồi tranh lại xuống khe khô. Đi
trên con đường rậm rập, không còn biết sống chết thế nào.
Mtao Ak và lũ tôi tớ đến
nương rẫy, bến nước của buôn làng M’Drong Dăm. Đến nơi nàng Sun tát
nước, bắt cá. Ông ta hỏi:
– Ơ lũ trẻ, kẻ giữ bò,
người chăn trâu ơi. Bến nước này của ai, buôn làng này của ai mà đẹp
quá vậy? Bến nước dựa vào sườn núi, buôn làng có núi non thoáng
mát như vậy.
Dân làng :
– Hỡi ông già Mtao Ak, sao
ông khinh người ta như khinh chó. Ông không biết, không nghe đây là bến
nước của cha nàng H’Bia Sun xinh đẹp sao? Họ là người đang giàu lên
từng ngày. Đầu họ đội khăn nhiễu dài. Cha H’Bia Sun chưa già yếu đã
có chồng nàng là M’Drong Dăm thay thế.
Mtao Ak :
– Hỡi lũ trẻ, hôm nay chồng
H’Bia Sun có nhà không?
Lũ trẻ :
– Không có đâu ! M’Drong Dăm
vắng nhà. Chàng vào rừng sâu săn bắn, chàng đi tìm thịt ngon, cá béo
cho H’Bia Sun ăn, cho nàng béo mập.
Bến nước tuyệt đẹp. Bến
nước to dần về phía dưới như đáy giỏ xúc cá. Bến nước sang láng.
Hòn đá tảng dựa lưng vào núi. Đàn bò như cá chín, đàn trâu như
những hòn đá biết đi. Voi ngoài rìa buôn đi ào ào. Mtao Ak nhìn thấy
cổng làng cao và vững chắc. Mtao Ak gặp bà aduôn Sun. Bà Sun, bà Sauê
cái đầu gật gật. Tóc bà trắng như bông hoa cỏ tranh, cằm bà dài,
răng thưa thớt.
Mtao Ak:
– Ơ bà aduôn Sun ơi, ai là
chủ bến nước. Ai là đầu gốc sung, cây đa ?
Aduôn Sun:
– Ôi sao ông lại không biết,
mọi người đều đã nghe tiếng tăm vang tận núi cao. Như múi thối của
con voi chết. Ông khôgn biết đây là bến nước của cha H’Bia Sun xinh đẹp,
nàng là vợ của M’Drong Dăm sao?
Mtao Ak:
– Chồng của H’Bia Sun có
nhà không hả bà?
Aduôn Sun:
– Tôi cũng không biết, bởi
vì nơi tôi sống như trong tay áo. Tôi sống ngoài hàng rào, chỉ nghe
thấy tiếng ching, tiếng trống rung từ xa. Đừng hỏi tôi. Ông đi hỏi thử
người đàn bà có đôi vú lệch đang giã bột. Ông hỏi thử người đàn bà
sa dạ con đang đứng giã men, đang sàng bột. Ba lần sàng đi rồi lại ba
lần sàng lại. Ông đi hỏi thử xem có khi họ biết nhà cha H’Bia Sun đấy.
Mtao Ak:
– Hỡi người đàn bà có đôi
vú lệch đang giã bột. Hỡi người đàn bà sa dạ con đang giã men, ba
lần sàng đi rồi ba lần sàng lại. Tôi muốn hỏi nhà M’Drong Dăm ở đâu
vậy?
Người đàn bà giã bột:
– Ôi, chúng tôi là đàn bà
có đôi vú lệch đang đứng giã gạo. Chúng tôi không biết nước non, cũng
khôgn biết hoa vàng hoa đỏ đâu. Chúng tôi càng không biết nhà M’Drong
Dăm, chồng nàng H’Bia Sun xinh đẹp ở đâu. Ông đến hỏi lũ trẻ đang gõ
quả bầu, lũ trẻ đang ngồi đánh mõ ống tre. Hỏi lũ trẻ đang làm nhà
chơi trên đất, có khi chúng biết đấy.
Mtao Ak:
– Hỡi lũ trẻ đang đánh quả
bầu, lũ trẻ đang dựng nhà trên đất. Các cháu chỉ đường nhà M’Drong
Dăm cho bác với.
Lũ trẻ:
– Ôi, chúng tôi là trẻ nhỏ,
chỉ biết gõ mõ, chỉ biết dnưgj nhà trên đất. Chúng tôi làm sao biết
được nhà M’Drong Dăm ở đâu. Ông đi hỏi lũ trẻ chăn bò, đi hỏi thử lũ
trẻ giữ ngựa, bọn trẻ chuyên chạy ngược chạy xuôi kia, biết đâu chúng
biết nhà M’Drong Dăm đấy!
Mtao Ak:
– Hỡi lũ trẻ chăn bò, coi
trâu, chăn ngựa. Các cháu có biết nhà M’Drong Dăm ở đâu không?
Lũ trẻ:
– Ôi chao ôi ! Chúng tôi là
kẻ chăn trâu bò hôi mùi cỏ, là kẻ chăn trâu hôi mùi bùn, làm sao biết
được nhà giàu. Kia, ông đến hỏi thử thằng đang ngồi chạn háng sưởi
lửa trấu, đêm ngồi như thế, sáng ngày cũng ngồi nhhư thế, có khi nó
biết đấy.
Mtao Ak:
– Hỡi chàng trai ngồi giơ
chân, giơ tay sưởi lửa trấu từ sáng đến chiều. Cháu có biết nhà
M’Drong Dăm ở đâu không?
Trẻ sưởi lửa:
– Tôi làm sao biết được? Tôi
là kẻ ngu dốt, chỉ ngồi sưởi lửa . Sáng ngồi thế này, đêm đến cũng
ngồi như thế. Nếu ông muốn biết, ông hãy hỏi lũ trẻ đang đào đất, đi
hỏi lũ trẻ đang nằm đầu cầu thang nhà giàu. Chúng chạy vào gian
trong rồi lại chạy ra gian ngoài. Có khi chúng biết nhà M’drong Dăm ở
chỗ nào.
Mtao Ak:
– Hỡi lũ trẻ ngồi đào
đất, lũ trẻ nằm đầu cầu thang, chạy vào gian trong rồi lại chạy ra
gian ngoài, cho tôi hỏi nhà anh M’Drong Dăm ở chỗ nào?
Lũ trẻ:
– Ôi, khách nào đấy? Khách
người Joăn mười, người trăm, người ngàn tất cả đều biết nhà nàng
H’Bia Sun xinh đẹp. Sao ông lại không biết ? Ông hãy nhìn cột hiên to
cao, ở dưới để nhiều bành voi, cầu thang rộng bằng ba chiếc chiếu,
người khiêng chiếu đi không chật, năm đứa trẻ đi xuống, ba người con
gái đi lên vẫn không đụng vào nhau. Gian trong giăng chỉ đỏ, gian ngoài
giăng chỉ vàng, trai lên xuống cầu thang như đàn ong đi lấy mật về làm
tổ. Đó là nhà H’Bia Sun, vợ M’Drong Dăm đấy.
Mtao Ak cho đầu voi ghé sát
hiên nhà cha H’Bia Sun. Mtao Ak nhảy từ trên đầu voi xuống hiên. Đàn heo
kêu, đàn chó sủa, lũ trẻ chạy tới nhìn khách và la ó.
H’Bia Sun:
– Ơ chim chích một ngàn,
chim cu một trăm, nô lệ trong nhà. Các người xem thử ngựa nhà ai lật
cầu thang. Các người ra xem thử con voi của ai đạp hiên làm ching ché
trong nhà đụng vào nhau kêu loảng xoảng?
Mtao Ak:
– Ơ em H’Bia Sun, người con
gái xinh đẹp nhất. Không phải ngựa làm đổ cầu thang nhà em. Không
phải voi đẹp hiên làm ching ché nhà em đụng nhau kêu loảng xoảng đâu.
Cha H’Bia Sun:
– Cha thấy người này có ý
đến thăm dò chồng con có ở nhà không. Họ muốn đạp thử nơi cột ngựa,
cột voi của chồng con đó, H’Bia Sun à.
H’Bia Sun:
– Người trai nào đấy? Đến
dọa nạt, ăn hiếp tôi sao? Tôi là đồ thối tha, người không ra người,
ngợm không ra ngợm. Tôi đến con chó cũng không thèm cắn, ngựa cũng
không hề hý để đón chào. Tôi mặc váy mới tới nửa chân, mặc áo cộc
tay, tai đeo khúc gỗ, vòng chân, như người con gái Bih, người Mnông.
Cha H’Bia Sun:
– Không, không phải người ta
thích con như thích quả chua, quả ngọt đâu. Không phải người ta thích
con như muốn ăn quả chua, canh ngọt đâu. Người ta không thích con từ hôm
qua, hôm kia. Ma quỷ ám chồng con. Người ta ghen tức chồng con. Họ muốn
nhóm lửa cây dầu rái, họ căm ghét chồng con. Sợ sau này chồng con sẽ
giàu sang. Bởi vậy mới có Mtao Ak nhảy từ đầu voi xuống hiên, từ hiên
nhảy đến ngưỡng cửa, từ ngạch cửa đến ghế kpan. Rồi nhảy từ đó
đến nơi đánh ching nhịp. Nhảy từ nơi đánh ching nhịp tới nơi đặt
trống. Từ nơi đặt trống nhảy đến buồng hai ngăn, buồng có hai lớp
phên, buồng treo nhiều tua xanh đỏ.
H’Bia Sun:
– Ơ chích một ngàn, cái
gùi của tôi bị rớt, tôi bỏ gùi. Ơ chim cu một trăm, tôi và chồng tôi
bị người ta ngăn cách. Hàng rào người ta đến phá, cấy cau người ta
đến chặt. Người ta đến đạp nơi để ching, ché, nơi buộc ngựa, voi, trâu
, bò. Người khách nào mà ta chưa từng gặp? Khách người Hrê ta chưa
từng thấy. Khách này là ai, mà dám xộc vào gian ngoài, dám vào gian
trong, vào buồng hai ngăn có lớp phên che. Người chăn bò có mùi cỏ,
kẻ chăn trâu có mùi bùn, người trông gà có mùi khăm khẳm như mùi khỉ?
Mtao Ak:
– Ơ H’Bia Sun, sao em lại dám
khinh người ta như vậy? Ta từng nằm trên võng như em đấy, như trai người
Lào. Chàng trai con nhà mtao Ea cũng nằm trong buồng nhiều ngăn như ta
đấy. Ta đẹp trai, yang ban cho giàu sang. Ta giàu sang, lại hùng mạnh.
Sao em dám khinh ta, em coi ta như con chó, em không biết ta là mtao Ak
sao?
H’Bia Sun:
– Nếu ông là khách giàu
sang thì ông phải ở gian ngoài, nếu là khách sang thì ngồi trên jhưng.
Nếu là khách qua lại thường ngày thì ngồi tạm bếp gian ngoài. Sao
ông lại đến nằm cửa buồng, mở nồi cơm?
Mtao Ak:
– Tôi đến đây thăm M’Drong
Dăm, em H’Bia Sun ạ.
H’Bia Sun:
– M’Drong Dăm đang sắn bắn
trong rừng, chàng tìm thịt ngon, cá béo. Chàng ăn óc trâu đã ngán, ăn
gan bò đã no, rượu đắng rượu ngọt uống đã nhiều. M’Drong Dăm nói
rằng ăn gan trâu khô, ăn gan bò có mùi thối, ăn thịt heo, gà có mùi
chua. Chàng muốn ăn gan bò rừng trên đồi tranh, muốn ăn gan con nai trong
rừng thưa, muốn ăn thịt hoẵng, thịt nai chạy quanh đồi, nên chàng cái
ná không rời vai.
Mtao Ak:
– Ta đến đây không có việc
gì đâu, chỉ muốn thăm M’Drong dăm thôi.
H’Bia Sun:
– Ông muốn gặp M’Drong Dăm
về chuyện gì hở Mtao Ak ?
H’Bia Sun xinh đẹp bắt đầu
ăn nói từ tốn với Mtao Ak. Nàng không còn chua chát nữa.
Mtao Ak:
– Thế này H’Bia Sun ạ. Tôi
đến đây không phải ức hiếp ai. Tôi đi buôn ché Tuk, tôi có con trâu đầu
bạc, nên tôi vội vàng đến đây để trao đổi.
H’Bia Sun:
– Ơ bác Mtao Ak. Không phải
vì con trâu, con bò, trai với gái như ching vừa mới treo, như cây con
mới mọc. Chúng tôi ăn ở với nhau chưa bao ngày, nuôi gà chưa được một
năm, nuôi heo chưa hết mùa xuân, dạy bảo dân làng cũng chưa hết năm.
Bác đến đây mang theo những thứ gì. Có phải bác đi buôn ching, thanh
la, bác bán thuốc lá hai gùi? Bác nói muối có hai bọc. Bác bảo đi
tìm khung dệt, đi đổi con trâu đực. Bác Mtao Ak ơi, chờ M’Drong Dăm đi săn
bắn về, việc gì cần bàn thì bác bàn. Còn tôi không biết gì hết,
vì tôi là con gái. Ơ chim chích một ngàn. Ơ chim cu một trăm. Bao ngời
trong nhà, các người lấy gạo trắng nấu cơm, đập con gà mái ấp, cột
rượu ché tuk để ta đãi bác mtao Ák.
Người kể chuyện:
Ơ chim chích một ngàn, ơ
chim cu một trăm, nô lệ trong nhàd, người nấu cơm, kẻ thui gà, người
buộc rượu. Cơm dọn ra, canh để trong bát mang ra cho Mtao Ak. Mtao Ak gọi
H’Bia Sun đến cùng ăn với mình, nhưng nàng không đến. Mtao Ak ăn một
mình. H’Bia Sun cột rượu ché ba đãi Mtao Ak. Cơm nước xong xuôi, Mtao Ak
ra ngồi bên ché rượu, ông ta gọi H’Bia Sun:
– Ơ H’Bia Sun. Đến đây ngồi
chơi và uống rượu cùng tôi. Uống một lúc thôi. Sáng mai tôi đi về.
Trời gần tối rồi.
H’Bia Sun:
– Tôi bây giờ đã già nua,
mắt kém, thân héo như cây thuốc lá trong vườn. Tôi nghèo, váy mặc
ngắn cũn, áo mặc còn hở cánh tay. Hoa tai đeo ngược. Chân tôi mỗi chân
đeo một vòng như thế này. Miệng môi tôi cong queo hôi mùi nhựa cây
thuốc lá.
Mtao Ak :
– Này H’ Bia Sun, sao em khinh
tôi như khinh chó, em không biết nhìn người hay sao?
Mtao Ak gọi H’Bia Sun uống
rượu. Ông ta nài nỉ như chó đực theo chó cái. Mtao Ak nói mãi H’Bia
Sun nghe bùi tai nên ra cùng uống rượu với ông ta ở gian ngoài. Mỗi
người uống hết một sừng nước. Uống xong H”Bia Sun trở về buồng nằm
nghỉ.
Mtao Ak:
– Ngồi chơi đã nào em H’Bia
Sun, chúng ta chưa kịp nói chuyện. Sao em khinh tôi như khinh chó, ngó
tôi như ngó người dưng? Rượu uống chưa nhạt. Uống rượu chưa say đã vội
đi nằm.
H’Bia Sun:
– Bác ngủ đi, trời khuya
rồi. Bác ngủ cho khỏe ngày mai còn về.
Mtao Ak nằm ngủ một mình ở
gian tiếp khách. Vừa nghe râm ran tiếng gà gáy lần thứ nhất, Mtao Ak
đã thức dậy gọi nài đi bắt voi, mắc bành để đi về. Ông ta gọi:
– Hỡi nài voi, dậy đi bắt
voi để ta về thôi
Nài voi:
– Ơ ông chủ ơi, trời chưa
sáng đâu, làm sao thấy đường mà mắc bành voi. Trời sáng chúng tôi mới
mắc bành voi được ông ạ.
Mtao Ak ngồi dậy hút một,
hai hơi thuốc chờ trời sáng. Đến khi trời sáng rõ, đám nài mới bắt
đầu mắc bành voi. Mắc xong, nài mời Mtao Ak lên voi đi về. Nhưng con voi
mới đi đến bến nước của buôn H’Bia Sun thì Mtao Ak đã bảo nài cho voi
trở lại, ghé vào hiên nhà H’Bia Sun:
– Ơ nài voi, quay đầu voi
trở lại nhà H’Bia Sun đi, ta để quên con dao ở ghế kpan, nơi đánh ching
của cha H’Bia Sun rồi.
Đám nài voi tưởng chủ nói
thật, liền cho voi quay lại nhà của cha nàng H’Bia Sun. Mtao Ak gọi
nàng:
– Ơ H’Bia Sun, vợ M’Drong Dăm
ơi. Cháu đưa giúp con dao của ta bỏ quên ở ghế đánh ching kia đi.
H’Bia Sun:
– Ơ bác Mtao Ak, tôi không
mang cho bác đâu. Tôi đang bận dệt vải, con đang địu trên lưng. Bác
xuống voi vào nhà mà lấy đi.
Mtao Ak làm như rất cần con
dao, lại như rất vội. Ông ta thúc nài như muốn đi về ngay. Thấy vậy
H’Bia Sun đứng dậy cầm con dao ra đưa cho Mtao Ak. Ông ta bảo H’Bia Sun giơ
dao đến gần đầu voi một chút. H’Bia Sun dướn người lên cho gần hơn,
chờ lúc thuận tay, Mtao Ak năm slấy ta nàng và kéo ném lên bành voi,
rồi bảo đám nài quay đầu voi chạy nhanh về hướng buôn mình.
H’Bia Sun bị Mtao Ak cướp
giữa ban ngày, chân tay bị trói chặt. Nàng vừa giãy giuạ vừa than
khóc gọi cha mẹ. Nàng nói với búi tóc cua rmình hãy bay đến nơi
M’Drong Dăm đang săn bắn, nơi rừng rậm núi cao, nói cho chàng biết vợ
ở nhà đã bị người ta cuớp mất rồi. Búi tóc của H’Bia Sun liền biến
thành con chim cu có lông màu đen, buổi sáng bay trên sườn đôi, buổi
trưa cất tiếng gáy. Chim bay chầm chậm qua đồi tranh, qua rừng thưa.
Chim cu vừa bay vừa hót liên hồi “cúc cu, cúc cu”. Con chim cu hót mãi
trên đồi cỏ tranh, chim chèo bẻo, chim bồ chao cũng kêu, hót liên hồi.
Chúng hót gọi M’Dong Dăm ở rừng cao, nơi lắm muông thú, nơi thú rừng
chưa hề biết hơi người. Bầy chim bay đã đến lán của M’Drong Dăm và
những người đi săn bắn. Chim bay đến lán liền cất tiếng hót “ cúc cu,
cúc cu, M’Dong Dăm mải đi săn bắn, nàng H’Bia Sun ở nhà bị người ta
cướp đi rồi”. M’Drong Dăm đnag nằm trong lán nghe tiếng chim kêu, chàng
gọi mọi người cùng nghe:
– Hỡi lũ trẻ, ơ cháu con.
Các người nghe xem có phải tiếng gà cục tác, tiếng trẻ con khóc,
tiếng của trai làng đang vang ngoài kia không?
Lũ trẻ:
– Ơ ông, chúng tôi chỉ nghe
tiếng chim hót vu vơ thôi.
Nô lệ và những người đi săn
không ai hiểu tiếng chim hót nói điều gì.Con chim vẫn cứ cất tiếng
hót “cúc cu, cúc cu…”. Tất cả bày chim đang đậu trên cấy đều hót như
thế. Ngay cả tai M’Dong Dăm nghe hai ba lượt cũng vẫn như thế, chim cu
hót “Mdrong Dăm mải đi săn để H’Bia Sun ở nhà bị kẻ ác cướp đi rồi”.
M’Drong Dăm:
– Hỡi chim chích một ngàn,
chim cu một trăm. Người xách ống tên, vác ná. Chúng ta trở về buôn
làng thôi. Thịt heo rừng bỏ lại xương. Con diều hâu đến đuổi chúng ta
đấy. Ta sẽ giết hết kẻ xấu ngay tại bãi chăn trâu bò của chúng.
Lũ trẻ:
– Có chuyện gì ông ơi. Bà
H’Bia Sun xinh đẹp của chúng ta bị người ta cướp rồi ư?
M’Drong Dăm:
– Đấy chim cu hót, nóa bảo
rằng bà của các con ở nhà đã bị kẻ ác đến cướp đi rồi. Hỡi lũ
trẻ, con cháu, kẻ coi bò, giữ trâu, mắc bành voi đi! Các con cưỡi voi
về sau, ta phải về trước ngay đây.
Nói rồi M’Drong Dăm liền
nhảy một bước. Chàng nhảy đẹp như chàng trai người Hrê, tay cầm ná,
lưng đeo ống tên, vai vác cây xagac to. Một hòn núi chàng chỉ một lần
nhảy, gặp thác nước chỉ một lượt đã qua. Một lần nhảy cao bằng
ngọn cây ênắt, nhảy qua ngọn cây knia, thân chàng tận mây xanh, mây
trắng. Về đến nhà chàng lên cầu thang làm ngôi nhà lắc lư, nồi niêu
của cha mẹ H’Bia Sun va vào nhau lách cách như trâu bò húc nhau. M’Drong
Dăm nghe tiếng mẹ H’Bia Sun khóc thảm thương. Bà khóc điệu khổ, điệu
buồn vì mất đứa con gái thương. Thấy mẹ H’Bia Sun khóc thảm thiết,
M’Drong Dăm nói:
– Sao mẹ khóc đầy nhà, như
có yang ác, ma quỷ ở đâu đó? H’Bia Sun đi mình trần, khăn áo còn treo
ở nhà, H’Bia Sun chết rồi sao mẹ? Mẹ đừng vội trách, mẹ đừng vội
la. Mất kim ta phải đi tìm. Con sẽ đi lùng theo dấu vết. Con dốc ngược
thân mình để tìm bằng được H’Bia Sun. Nếu đi lần này sống thì con ăn
lúa. Chết thì con ăn đất sỏi, sẽ đầu thai vào kiếp khác. H’Bia Sun
với con máu đã đỏ lược, trái cây độc chết cùng một lần, sống cùng
mốt ố nên con phải liều mình như thế. Mẹ đừng vội khóc để khổ, để
nghèo. Con và H’Bia Sun sống không trách đàn bà, chết không trách đàn
ông. Con và H’ Bia Sun chết nằm chung một hòm, chung một cái nhà mồ
dài cao.
Mẹ H’Bia Sun vào bếp thui
gà, nấu cơm nếp trong một cái bin. Còn M’Drong Dăm lo mài giáo mác,
chùi khil để mang đi. Ăn uống xong, chàng lên đường đi tìm H’Bia Sun.
M’Drong dăm một mình một ngựa lần theo dấu chân ngưa, chân voi, theo con
đường Mtao Ak dẫn nàng H’Bia Sun đi. Qua rừng, lên núi cao, chàng lật
đá và đi theo hang động. Đến buôn làng Mtao Ak chàng gọi lớn:
– Ơ lũ trẻ, con cháu, kẻ
giữ bò, người chăn trâu, người giữ nhà, ai là người gác cổng buôn
Mtao Ak?
Mtao Ak:
– Ơ lũ trẻ nhỏ, các cháu
nghe thử, gà nhà ai cục tác, con ai khóc, tiếng rèn búa của ai ngoài
kia.
Trong lúc đó H”Bia Sun đang
bị trói tay, cùm chân. Nàng khóc. Nước mắt chảy xuống gông cùm, người
ta giữ nàng như giữ bò, giữ trâu.
M’Drong Dăm:
– Ơ lũ trẻ, hãy mở cổng
sắt cho tôi vào để thăm chú bác tôi.
Mtao Ak:
– Ơ lũ trẻ. Con gà nhà ai
cục tác. con ai khóc, tiếng rèn bủa của ai ngoài kia? Con gà trống
mào đỏ nào đến đây đê rlấy ching, ché, cọc buộc ngựa, voi. Hỡi lũ
trẻ, hãy đi xem thử. Nếu gặp khách yếu vía thì mở cổng cho vào.
Nếu gặp khách hùng mạnh thì các cháu đóng thêm chốt cho chặt nhé.
M’Drong Dăm càng gọi thì
tiếng đóng cổng cài then càng vang to hơn. Chàng dùng hết sức mạnh xô
hàng reo một lần, hàng rào ngã rạp. Chàng đá bằng chân, ba lớp rào
bị xiêu. Chàng áp người, bảy lớp rào bị đổ. Chàng gọi to:
– Ơ bác Mtao Ak. Sao bác dám
bẻ ngà ở miệng voi, nhổ sừng trên đầu tê giác. Sao bác lại dám cướp
vợ tôi ngay ở trong buồng.
Nghe tiếng chàng H’Bia Sun
khóc lóc. Tiếng khóc của nàng mỗi lúc một to hơn. M’Drong Dăm nói:
– Em H’Bia Sun ơi, để cho nó
ăn gan trâu bò rồi anh chặt đầu nó quăng cho thần nước, chặt đùì ném
cho thần núi, xác nó để cho lũ kền kền, lũ quạ rỉa suốt ngày đêm.
Thịt nó ném ra bụi cỏ tranh, xương ném xuống thác nước. Chân tay nó
đưa cho thần Tlúa, máu nó đưa cho thần kbua, cho đấy hút, lũ ma quỷ
uống. Để cho nó không còn hung hăng nữa. Ơ Mtao Ak. Xuống đi. Tôi muốn
nói cười với bác đây.
Mtao Ak:
– Cháu hãy ra khỏi buôn
làng của ta. Nếu không ta sẽ cho nô lệ khỏe mạnh đến giết chết cháu
ngay tại bãi trâu bò. Ta tiếc cháu như cây tre còn non M’Drong Dăm ạ.
M’Drong Dăm:
– Tôi không đi đâu. Bác phải
trả vợ cho tôi trước đã. Nếu không tôi sẽ chém bác, chặt cổ bác
bằng giáo mác đang cầm trong tay đây.
Mtao Ak ra tới hiên nhà,
M’Drong Dăm đứng sẵn trên sàn, chờ đọ đao, múa khil với ông ta. Mtap Ak
coi khinh chàng, coi như đứa trẻ mới cao bằng đầu gối, còn chui qua
háng người lớn. Ông ta khinh chàng như khinh con chó, không thèm dùng
khil đao, ngoay ngoáy chạy vào gian trong. M’Dong dăm tức giận đến tận
cổ. Chàng liền dùng tay rút cây xà dưới sàn, làm nhà Mtao Ak rung
rinh, nghiêng cột nhà từ trong ra ngoài. Mtao Ak tức giận liền gọi nô
lệ đánh M’Drong Dăm. Chàng đứng nguyên tại chỗ xoay chiếc khil. Gió
khil của chàng làm cho bọn nô lệ ngã la liệt trước sân nhà. Năm lần
đứng dậy là năm lượt ngã xuống. Bảy lần xông tới là bảy lần run
rẩy sợ hãi. Lũ nô lệ không dám xông vào chàng nữa. Mtao Ak lại gọi
những nô lẹ khỏe hơn, có tài hơn, cũng vẫn bị gió khil của chàng
đánh bạt đi, ngã hết. Mtao Ak kêu nấu cơm nồi bung nồi bảy để nô lệ
ăn đánh nhau với M’Drong Dăm vẫn không thắng nổi chàng. Chàng gọi:
– Tôi muốn bác Mtao Ak xuống
sân này. Sao bác không dám xuống?
Mtao Ak hét nô lệ mang khil
đao tới, nhảy xuống đất định chém M’Drong Dăm, nhưng lưỡi đao của ông
ta chém không trúng. Mtao Ak liên tục đuổi đánh M’Drong Dăm. Chàng chạy
quanh chuồng heo, ông ta chém nát chuồng heo. Chàng chạy quanh chuồng
bò, ông ta chém nát chuồng bò, làm heo bò của ông chết la liệt.
M’Dong Dăm nấp dưới bụng voi, Mtao Ak chém voi đứt đôi. Nấp dưới gầm
nhà, ông ta chém chết con trâi đực buộc ở đó. M’Drong vừa chạy nhảy,
trêu chọc vừa chế nhạo:
– Tiếc con voi quá. Sao bác
lại chém voi đực nhà mình vậy? Tiếc con trâu quá ! Sao bác lại chém
trâu nhà mình?
Mtao Ak khát khô cả cả họng
liền gọi H’Bia Sun đem nước uống:
– Ơ em H’Bia Sun, hãy đem
nước cho ta uống. Cởi trói cho H’Bia Sun đi các con.
Trong lúc nô lệ mở trói cho
H’Bia Sun, Mtao Ak lại đòi ăn cơm nếp. H’Bia Sun ném cục cơm nếp, Mtao Ak
chưa kịp bắt đã bị M’Drong Dăm tóm mất. Bà vợ cả của ông ta cầm cục
cơm ném tiếp cho chồng:
– Đây cục cơm nếp của Mtao
Ak, chồng tôi ăn đi để có sức chém M’Drong Dăm.
Mtao Ak đưa tay ra đón lấy
cục cơm nếp, nhưng M’Drong dăm đã ngưa rcái khil ra đón lấy. Chàng vừa
ăn vừa lia đao, múa khil. Gặp bảy hòn núi chàng chỉ nhảy một cái là
qua. Gặp bảy thác nước chàng chỉ nhún một lần là vượt qua, nhảy
tiếp từ đồi này sang đồi kia. Chàng luồn qua cả đám mây đen, chỉ
loáng thoáng thấy tua khố bay theo trong mây. Mtao Ak than:
– Bác không bằng cháu nên
mệt rồi cháu ạ. Bác nghỉ đây.
– Hai bác cháu ta cùng nghỉ
vậy.
Mtao Ak nghỉ ngơi ăn cơm hút
thuốc, ngủ thiêm thiệp một chút. Sau đó dậy lại hút thuốc, ăn cơm
nếp, uống nước. Xong rồi bảo M’Drong Dăm tiếp tục đuổi đánh nhau. Mtao
Ak bắt đầu nhảy . Ông ta nhảy như khúc gỗ, như người ta treo đá ở
chân, như ai treo cối giã gạo ở vai. Đưa tay về phái Tây làm vỡ bầu
nước, đưa chân về phía đông cũng làm vỡ bầu nước. Ông ta kếu khát
nước. M’Drong Dăm bảo :
– Người bác ốm yếu, lại
không giỏi khil đao. Sao bác lại dám đi bắt tê giác. Bác là kẻ già
nua, mắt mờ, thân thể dần héo hon, sao bác lại dám bắt con cọp, con
gấu? Bác có biết M’Drong dăm như heo đang lớn, như chó điên bị đau
không?
Mtao Ak:
– Bác nghe tin từ nơi này
đến nơi khác chỉ có H’Bia Sun là xinh đẹp. Bác thích nàng như thích
quả chua, ưa nàng như ưa quá ngọt. Thích nàng từ ngày hôm qua, hôm kia
rồi.
M’Drong Dăm:
– Bác thích nàng như thích
qua rchua, như ưa quả ngọt. Sao bác không thích từ hồi nàng còn son
trẻ, như quả mít, quả soài mới lớn. Sao lúc đó bac không đi dắt nàng
về.
Nói rồi chàng cầm khil đao
đuổi đánh Mtao Ak . hắn trốn trong chuồng heo, lũ heo đuổi cắn, chạy
vào chuồng bò, đàn bò đuổi húc, dựa vào thân voi, con voi đá. Mtao Ak
trốn vào dâu M’Drong dăm cũng chém tan tành nơi đó. Trốn dưới gầm
nhà, các cột bị chém gãy đôi. Nha flớn nhà nhỏ trong buôn bị gió
khil chàng làm cho tốc mái bay hết. Cho dù được vợ cả đem cơm đem
nước, mang thuốc cho hút, Mtao Ak cũng không địch lại nổi vì H’ Bia Sun
cũng mang cơm, nước và thuốc hút tiếp sức cho M’Drong Dăm. Sau lần
nhảy cuối cùng, chàng chém trúng bắp chân ông ta, máu tràn ra khắp
nơi. Lần nhảy thứ hai chàng chém đứt cánh tay, Mtao Ak ngã gục xuống.
Tiếng kêu khóc vang lên thảm thiết.
M’Drong Dăm nói:
– Ơ bác Mtao Ak ơi! Trống tôi
đánh kêu to, tù và tôi thổi vang. Vải xanh vải đỏ tôi phơi khắp nơi.
Ngựa đực có theo ngựa cái; trai gái trong làng có đi theo tôi không?
Dân làng:
– Ơ anh M’Drong Dăm. Nếu ngựa
đực không theo ngựa cái; con trai con gái nếu không đi theo ông thì ai
sẽ trông coi chúng tôi. Trâu bò ai gìn giữ, cây đổ phải đi theo ván
dài thôi.
Vậy là tất cả các nô lệ
của Mtao Ak đều theo về buôn của cha nàng H’Bia Sun. Họ kéo đi đông như
bầy hươu, ùn ùn như đàn kiến, nhi nhúc như đàn mối. Ngày đi, đêm
nghỉ, đi liền ba ngày mới tới buôn làng của H’Bia Sun.
Từ đó, nàng H’Bia Sun xinh
đẹp chỉ ở trong nhà. Nhà M’Drong Dăm ăn năm uống tháng triền miên, cho
đến khi bước vào mùa rẫy mới.
* Biên Khảo Huỳnh Tâm.
.jpg)





.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét