TỔNG
QUAN VỀ NGƯỜI RỤC.
Dân tộc Rục là một nhóm dân tộc thiểu số rất nhỏ, thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, sống
chủ yếu ở vùng núi rừng xã Thượng Hóa,
huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, đặc biệt là khu vực hang sâu trong rừng núi Phong Nha, Kẻ Bàng.
- Họ được phát
hiện chính thức vào năm 1959,
trong bối cảnh còn sống trong hang đá, săn bắt, hái lượm nguyên thủy, gần như
biệt lập với thế giới bên ngoài.
1 . ĐỜI
SỐNG SINH HOẠT.
a . Cư
trú:
- Trước 1959,
người Rục sống trong các hang đá,
đặc biệt tại vùng rừng sâu núi cao Trường Sơn.
b .
Kinh tế:
* Chủ yếu dựa vào:
- Săn bắt, hái lượm: bắt thú rừng,
đào củ mài, hái rau rừng, lấy mật ong.
- Trồng trọt nhỏ lẻ: gần đây họ đã
được hỗ trợ để trồng lúa rẫy, sắn, ngô.
- Nuôi gà, lợn: vẫn ở mức tự
cung tự cấp.
- Gần như không
có nghề thủ công truyền thống phát triển rõ nét.
c.
Trang phục:
- Trước kia mặc vỏ cây rừng, nay mặc quần áo vải thông
thường do nhà nước hỗ trợ.
- Họ thích màu tối, chất liệu đơn giản, nhưng vẫn
mang dấu ấn "rừng núi" trong gu thẩm mỹ giản dị.
2 . ĐẶC
ĐIỂM VĂN HÓA TINH THẦN.
a . Tín
ngưỡng:
- Thờ đa thần: núi, sông,
rừng, hang, thần cây, một dạng tín ngưỡng vật linh cổ xưa.
- Tin rằng mọi
vật có hồn, nên họ rất kiêng kỵ phá
hoại rừng, hoặc làm tổn hại đến tự nhiên một cách vô cớ.
- Cúng tế đơn giản: dùng gà, cơm
lam, rượu nếp.
- Không có chùa, đền hoặc nơi thờ cố định, họ cúng tại nhà hoặc ngoài trời.
b . Văn nghệ dân gian:
- Có hát đối, tụng kể nhưng rất ít phổ biến và phần
lớn đang mai một.
- Một vài làn điệu dân ca gắn liền với lễ cưới, lễ cúng rừng, lễ trưởng
thành.
- Không có chữ viết riêng, và tiếng
Rục đang trong diện nguy cơ biến mất.
c. Hôn nhân, gia
đình:
- Hôn nhân tự do: thường do
trai gái tìm hiểu nhau, đôi khi qua lễ
vật sính cưới giản dị (trầu cau, gà, rượu).
- Từng có tục kết hôn cận huyết,
nhưng đã được tuyên truyền để từ bỏ.
- Gia đình sống theo nhóm nhỏ,
kiểu mẫu phụ hệ, vợ chồng con cái ở cùng nhau, ít có họ tộc lớn.
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐƯƠNG ĐẠI.
A .
Biến đổi xã hội:
- Sự hội nhập vào
đời sống hiện đại mang lại tiến bộ về y tế, học hành, an sinh.
- Tuy nhiên,
người Rục gặp nhiều khó khăn trong hòa
nhập văn hóa do:
- Khác biệt về
ngôn ngữ, phong tục, niềm tin.
- Tâm lý e dè, khép kín sau nhiều thế hệ sống
biệt lập.
B .
Nguy cơ mai một văn hóa:
- Lớp trẻ nói
tiếng Kinh, ít nói tiếng mẹ đẻ.
- Không còn ai nhớ rõ phong tục truyền thống, nghệ
thuật dân gian bị thất truyền.
- Rất cần bảo tồn di sản phi vật thể: tiếng nói,
tín ngưỡng, tri thức bản địa.
4 .
CHIÊM NGHIỆM NHÂN SINH & BIỂU TƯỢNG TÂM LINH.
Người Rục như dấu tích sống động của nền văn minh cổ xưa, tượng trưng cho:
- Sự hoang sơ thuần khiết trước thời
công nghiệp.
- Tinh thần cộng sinh với
thiên nhiên, hài hòa mà không chiếm đoạt.
- Họ là gương soi nội tâm của nhân loại hiện đại,
nhắc ta về "nơi khởi đầu" cái đơn sơ, khiêm cung và thuần tịnh.
GỢI Ý
NGHIÊN CỨU & BẢO TỒN.
- Ngôn ngữ học: Ghi âm, hệ
thống hóa từ vựng tiếng Rục, làm từ điển song ngữ.
- Dân tộc học: phục dựng các
lễ nghi, tín ngưỡng rừng núi.
- Tâm linh học: Tìm hiểu mối
liên hệ giữa tín ngưỡng Rục và vũ trụ quan bản địa Đông Dương.
Người Rục không chỉ là một nhóm dân tộc nhỏ, mà còn là tấm gương nguyên thủy phản chiếu chiều sâu văn hóa Việt, gợi nhắc
ta về nhu cầu bảo tồn đa dạng văn hóa,
lắng nghe tiếng nói từ rừng sâu,
để lòng người hiện đại không lạc quẻ
giữa gốc rễ tiền nhân.
NGẬM NGÙI VĂN HÓA NGƯỚI
RỤC
DI SẢN TIÊN LINH TỪ RỪNG
THIÊNG VIỆT NAM.
I . DẪN NHẬP: Tầm gương
linh thâm từ hang sâu Người Rục, một nhóm tộc người thiểu số đặc biệt
sống tại vùng rị Thượng Hóa, Minh Hóa, Quảng Bình, được xem như di vệt sống của
thời tiền sử. Không chỉ là nhóm tộc với quy mô dân số nhỏ, họ còn đại diện cho
một hệ văn hóa sinh tồn đầy trực giác với thiên nhiên. Từ lối sống trong hang
đá tới sự hội nhập vào thế kỷ XXI, người Rục đánh dấu một chặng đường chồng
chọi văn hóa lớng ghép giữa cổ đại và hiện đại, giữa huyền linh và trần tục.
II . VĂN HÓA SÍNH TỒN VÀ
MÔI TRƯỚNG BẢN ĐỊA.
Người Rục sống trong các hang đá thâm u, gắn bó mỗi
hoàn toàn vào rừng già. Cách sinh tồn của họ phản ánh hệ tri thức bản địa: săn
bắt, hái lượm, dùng cây rừng làm thuốc, ăn củ mài thay cơm. Trong văn hóa này,
con người không phải kẻ chủ tể mà là bốn phận trong tổng thể sinh linh. Hang đá
trở thành môi trường linh thiên, nơi tiếp nối với thần linh rừng núi.
III. TÍN NGƯỌNG VÀ VŨ TRỤ
QUAN CỦA NGƯỚI RỤC.
Người Rục không có hệ thống tôn giáo chính thức,
nhưng mang một vũ trụ quan sâu xa: mọi vật đều linh thiên. Họ thờ cây rừng, hốc
đá, đánh trống, khấn nguyện khi vào rừng, tránh lối nói xô bổ khi nhắc đến
"thần rừng". Trong văn hóa Rục, sự sợ hãi mang tính thân linh, là phản chiếu của ý thức về sự giới
hạn của con người trước thiên nhiên.
IV. BIỂN ĐỔI VĂN HÓA VÀ
CUỐC CHIẾN CÚU SINH. Kể từ khi được phát hiện năm 1959, người Rục bỏ
hang để về bản Định Cư. Họ đã được hỗ trợ nhà, lương thực, trường học, nhưng
đổi lại, nhiều giá trị linh thâm bị mai một. Hôn nhân cận huyết bị bỏ, ngôn ngữ
rạn nứt, tín ngưỡng mờ ảo bị cười nhạo. Cuộc chiến giữ lại linh hồn văn hóa trở
thành sự cứu sinh.
V. NGƯỚI RỤC TRONG TƯ DUY
NHÂN HỌC VÀ TRIẾT HỌC BẢN ĐỊA.
Người Rục là hình tượng của nệp sống đáng kính
trọng: tự do trước thiên nhiên, khiêm cung trước vũ trụ, và đầy tình đồng thể
với vạn loài. Trong nhãn quan đối chi‑văn minh, người Rục như âm vang của thuở
hồng hoang, là tiếng chuếng linh thiên nhắc nhở nhân loại hiện đại về đạo đức
sinh tồn.
VI . KẺU GỌI: BẢO TỒN VĂN
HÓA RỤC LÀ GIỬ CỨU CẢ TOÀN QUỐC HỌC.
Không chỉ là vấn đề dân tộc thiểu số, việc giữ gìn
người Rục là hành động thiêt yếu để giữ gìn ý thức văn hóa quốc gia. Cần:
- Ghi chép, lưu trữ văn hóa phi vật thể.
- Đào tạo người Rục trở thành chủ thể văn hóa của
chính mình.
- Tích hợp giao lưu văn hóa để văn hóa Rục không bị
đồng hoá hay khai thác du lịch một cách vô hồn.
VII . Người Rục, giữa
rọn sâu núi thém, vẫn làm chứng nhân cho khả năng thích ứng bền bỉ, cho linh
khí sông núi Việt Nam. Sự bảo tồn văn hóa Rục không chỉ là sự trở về cội nguồn,
mà là hành động cứu rỗi linh hồn dân tộc trong dòng xoáy toàn cầu hóa.
TRƯỜNG CA: HỒN ĐÁ GỌI
RỪNG
Thi ca tâm linh mang âm hưởng văn
hóa dân tộc Rục.
KHỨ KHÍ HANG SÂU.
Hang Rục lặng ngắt dấu đàn chim
Lá rời vào cổi điện linh im lặng
Gió đi qua mái đá vố hình
Tốc người giả, hấp hôi hương khói rừng
GIỌNG KÊN CỔ.
Người Rục hát không lời câu trau chuốt
Chỉ đốt lửa, đủ lửa chiên gọt lành
Lời ấy ắng, rừng nghe nhớ rạn đanh
Truyền hình ngực cổ, rung tim thần lá
BÀN TAY ĐÁNG DẤU RỪNG NÚI.
Vết chân lỏ trên cát, trên lá, trên vợ đá
Dấu đánh dấu sâu xa đồng huyền linh
Người đi qua rừng, như đi vào lòng mình
Mỗi cây, mỗi rễ, là ký ức với thiên nhiên
TRÈ NHỎ RỤC.
Đêm nằm nghe tiếng gọi trong hơi đá
Tiếng người xưa còn ốp ỏ trong hang
Rắc lá đóng rơm, ăn củ rừng khô
Bé thầm khấn: "Cho con một lời rừng già"
HƠI SƯƠNG CỦA ĐÁ.
Môi đá mộc róc lời rì rỉ tự thuở
Rồi vào tim ai mỗi nhịp rung cổ tích
Linh hồn rừng, linh hồn lá, linh hồn nắng
Linh hồn người cũ, đứng sau mỗi nhánh trăng
LINH THẦN VỀ TỪ RỪNG.
Ai còn nghe khúc khỏi nguyên ngốc đê
Từ đốm lửa rửi than đởn nắng trên vai
Ai ngồi lặng giữa rừng, ngổn là thân thái
Biết nghe Hồn Đá gọi rừng trong hư không.
TRUYỆN
KÝ: "LỜI GỌI TỪ HƠI ĐÁ".
Tạp bút linh cảm về người Rục.
Tôi đến Rục vào một ngày sương sớm đặc quánh như
nỗi nhớ ngàn đời chưa tan. Rừng chưa kịp cựa mình, đá còn ngủ mơ trong cõi mù u
uẩn, và gió vẫn thủ thỉ như tiếng bà già đang kể dở câu chuyện cổ tích bằng
giọng lưỡi không còn tồn tại.
Người Rục không cười bằng môi. Họ cười bằng ánh mắt
đã nhuộm khói củi rừng và ký ức vết muối sót lại trên da thịt những đêm săn
muộn. Một bé gái không nói, chỉ đưa tôi một mảnh vỏ cây rừng khô thứ mà về sau
tôi mới biết là "thư pháp cổ" người già khắc lời tổ tiên bằng gốc gai
hoặc móng đá rồi giấu trong kẽ đá ẩm. Đó là thư viện sống, thư viện trầm mặc
không cần đọc.
Tôi từng tưởng văn hóa là trường lớp, là sách vở,
là nhạc cụ chỉnh âm đúng điệu. Nhưng không văn hóa Rục là không nói mà nghe, không ghi mà nhớ, không
giữ mà sống. Họ sống bằng ký ức rừng, lửa rừng, và những hơi thở đá
rừng. Họ biết một cái cây không phải chỉ là cây. Mà là người thân. Một con sóc
không chỉ là mồi. Mà là tín hiệu của Tổ tiên đang dặn dò: "Còn rừng, thì
còn người."
Già Đíp, người được xem là "thầy của đá"
nói với tôi trong một buổi chiều đá khóc. "Mi cứ ngồi đây. Một lát đá sẽ
kể mi nghe chuyện đời nó." Tôi ngồi. Và đá bắt đầu thở. Từng lằn rêu xanh
như chảy ngược dòng máu về huyệt tổ, mỗi giọt sương trên rễ cổ thụ rung rinh
như lời niệm tổ tiên bằng thổ ngữ đã chết mà vẫn còn âm vọng.
Tôi viết lại câu chuyện này không để kể. Mà để giữ.
Giữ cho một ngày nào đó, ai đó bước ngang rừng Rục, gặp một đứa trẻ không nói
trao cho họ một mảnh vỏ cây khắc chữ. Và họ hiểu. Họ không cần hỏi.
VỌNG ÂM NGƯỜI RỪNG.
Tạp Bút Nhân Học Tâm Linh
Về Người Rục.
Mái Đá Chở Hồn.
Đêm Rục lắng, sương rơi nhè nhẹ
Mái đá cong, in bóng nửa linh hồn
Người nằm đó không tên, không thổ lộ
Gió thở từng hơi chuyện cũ chưa tròn
Họ xếp đá theo hình chiếc gùi úp
Trẻ lên đồi, miệng gọi: "Mây về đi!"
Mây không trả, mà bóng mây lùi lại
Gùi đầy sương, mang nặng dấu thiêng thì
Chén Nước Trên Tay Già.
Già Rục rót nước rừng trong đá
Nước không lời, mà lấp lánh thần uy
Ai uống ngụm, như uống cả đất trời
Thấy tiếng đá rung, tiếng trời đổ xuống
Lá Bùa Của Đêm.
Giữa đêm tối, trẻ thơ ôm ngọn lá
Người mẹ ngồi khấn gió lặng, mây qua
Chiếc lá nhỏ in vòng tay tổ mẫu
Bùa không chữ, mà chở mộng bao la
Tiếng Lửa Vách Đá.
Lửa bập bùng nơi khe đá tịch liêu
Lưỡi lửa vươn như kể chuyện cao siêu
Giọng của tổ, của trời, và của đất
Nhen lên hồn, hơ ấm cả mai chiều
Hồn Trẻ Trôi Trong Rừng.
Trẻ lên tám, mắt sâu hơn bóng lá
Chạy theo nai, rồi lạc lối thinh không
Gió đưa tiếng khóc chìm trong mạch đá
Một linh hồn chập chờn giữa bụi rừng
Thinh Không Rừng Gọi Về.
Không ai nói, mà rừng như đang gọi
Âm vang linh, vọng tận ngõ không nhà
Tiếng con suối là bài kinh của đá
Người Rục nghe như nghe Mẹ sinh ra
Bóng Nắng Lưng Đồi.
Nắng trườn nhẹ qua lưng đồi rêu phủ
Bóng người Rục đổ nghiêng xuống ngàn sâu
Từng vệt sáng như khắc tên vĩnh cửu
Trên mặt đất, trên linh hồn nhiệm mầu
Dáng Người Qua Suối Mơ.
Người qua suối, dáng như làn sương ngủ
Bước lặng lẽ không chạm đá, chạm rêu
Chiếc bóng ấy phải chăng từ cổ tích
Từ nghìn thu còn vọng giữa rừng chiều?
Giấc Mơ Đá Trắng.
Trẻ mơ thấy mình hoá thân thành đá
Một khối trắng ôm tròn gió và cây
Mắt nhắm lại, mà linh hồn bừng sáng
Thấy mình bay, về phía cội xưa nay
Hòa Âm Của Cây Rừng.
Gió thổi qua, lá rung như dàn nhạc
Mỗi phiến xanh là một nốt thiên nhiên
Kèn của chim, trống từ lòng gốc mục
Khúc rừng thiêng dội vọng cả ba miền
Người Rục có những đặc điểm văn
hóa rất đặc trưng, phản ánh cuộc sống sinh tồn còn nhiều nét nguyên sơ, gắn bó
mật thiết với tự nhiên của họ. Dưới đây là một số nét đặc trưng nổi bật trong
văn hóa của người Rục:
1 . Phong cách sống và sinh hoạt.
- Nông nghiệp tự nhiên: Người Rục chủ yếu sống dựa vào nông
nghiệp, trồng lúa rẫy, săn bắt, hái lượm và đánh bắt thủy sản.
- Nhà sàn: Họ xây nhà sàn bằng gỗ, mái lá để tránh lũ lụt và
giữ độ mát mẻ vào mùa hè.
- Trang phục: Trang phục của người Rục thường đơn giản, làm
bằng vải tự nhuộm tự nhiên, phù hợp với khí hậu và sinh hoạt.
2 . Tôn giáo và tín ngưỡng.
- Họ có hệ thống tín ngưỡng rất
đa dạng, thờ cúng thần linh, tổ tiên, các linh hồn tự nhiên.
- Các lễ hội dân gian, nghi lễ
truyền thống có ý nghĩa phồn thực, cầu mùa, cầu sức khỏe.
3 . Ngôn ngữ.
- Người Rục có riêng ngôn ngữ, thuộc
ngữ hệ Môn-Khmer, rất phong phú và ít bị ảnh hưởng bởi tiếng phổ thông.
- Do tiếp xúc ít với thế giới bên
ngoài, ngôn ngữ của họ rất nguyên sơ và bảo tồn nhiều nét cổ xưa.
4 . Nghề thủ công truyền thống.
- Thủ công mỹ nghệ như đan lát,
chế tác đồ dùng bằng tre, gỗ, sùa là một phần quan trọng trong đời sống họ.
- Họ làm các dụng cụ sinh hoạt,
trang phục, đồ trang sức bằng vật liệu tự nhiên quanh nhà.
5. Văn hóa truyền thống
- Các câu chuyện, hát đối đáp,
trò chơi dân gian vẫn còn phổ biến.
- Các phong tục, lễ hội truyền
thống giữ vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng.
6 . Các nét đặc thù khác.
- Người Rục rất gắn bó với tự
nhiên và thường nhân cách hóa các hiện tượng tự nhiên, xem đó như những linh
hồn linh thiêng.
- Các mối quan hệ cộng đồng rất
khăng khít, dựa trên nguyên tắc sẻ chia, đoàn kết.
Quá trình hòa nhập của người Rục
đã diễn ra rất tích cực trong những năm gần đây, mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn
và thách thức. Chính quyền và các tổ chức đã triển khai nhiều chính sách nhằm
giúp dân tộc Rục thoát khỏi đói nghèo, nâng cao đời sống và bảo tồn bản sắc văn
hóa đặc trưng của họ. Dưới đây là một số điểm chính về quá trình này:
1 . Chuyển đổi về kinh tế và đời sống.
- Người Rục đã dần chuyển từ cuộc
sống dựa vào rừng để lấy lâm nghiệp, săn bắt, hái lượm sang canh tác nông
nghiệp, chăn nuôi và làm nghề thủ công.
- Các chương trình hỗ trợ về
giống cây trồng, vật nuôi, học nghề, xây dựng nhà ở đã giúp họ ổn định cuộc
sống.
2. Học tập và giáo dục.
- Học sinh dân tộc Rục đã bắt đầu
tới trường học, giúp nâng cao kiến thức và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã
hội.
- Các cô bác, người lớn cũng được
tiếp cận các chương trình đào tạo nghề, tập huấn kỹ thuật sản xuất.
3. Bảo tồn văn hóa và văn hoá đặc trưng.
- Dù hòa nhập, cộng đồng Rục vẫn
cố gắng giữ gìn các nét đẹp văn hóa, như trang phục, lễ hội, chủ nghĩa cộng
đồng và truyền thống dân gian.
- Các hoạt động truyền thống vẫn
được tổ chức để duy trì bản sắc.
4. Khó khăn và thách thức.
- Một số người vẫn còn giữ tập
quán cũ, khó hòa nhập với cuộc sống hiện đại.
- Vấn đề bảo tồn bản sắc và nâng
cao nhận thức cộng đồng là những thách thức lớn.
- Tổng kết.
Quá trình hòa nhập của người Rục
là một hành trình tích cực, thể hiện sự vươn lên của cộng đồng dân tộc thiểu số
trong hành trình phát triển bền vững của đất nước, đồng thời vẫn giữ gìn được
bản sắc văn hóa riêng biệt của mình.
* Biên Khảo Huỳnh Tâm.










Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét