I - Đặc điểm tự nhiên và xã hội
Tây Bắc, một vùng văn hoá, xứ sở hoa Ban, quê hương Xoè
hoa, miền đất dịu ngọt của những thiên tình sử Tiễn dặn người yêu (dân tộc Thái),
nhưng cũng đầy tiếng than thở của những thân phận người Tiếng hát làm dâu (dân
tộc Mông) và Khảm hải (dân tộc Tày).
Tây Bắc là một miền núi cao hiểm trở. Các dãy núi chạy theo
hướng Tây Bắc-Đông Nam, trong đó có dãy Hoàng Liên Sơn dài đến 180 km, rộng 30
km, cao từ 1500m trở lên, các đỉnh cao nhất như Phanxipăng 3142m, Yam Phình
3096m, Pu Luông 2.983m. Dãy Hoàng Liên Sơn, được người Thái gọi là "sừng
trời" (Khau phạ), chính là bức tường thành phía đông và vùng Tây Bắc.
Nó nằm bên bờ phải sông Hồng, con sông mà tổ tiên người
Thái gọi là Nậm Tao, nên ngày nay đoạn sông này còn có tên tiếng Kinh là sông
Thao. Dòng Nặm Tao chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử thiên di của người
Thái đen vào Tây Bắc. Theo sử huyền thoại Thái thì tổ tiên họ là Tạo Xuông-Tạo
Ngần bay từ trên trời xuống và phải vượt qua con sông rộng, lắm sóng dữ, ghềnh
thác. Qua con sông là đến địa phận của trần gian. Khó khăn là thế nên tên thần
thoại của dòng Nặm Tao là dòng "Sông Đắng-sông Xối" (Nặm ta Khôm-Nặm
Ta Khái). Còn theo các nhà dân tộc học thì dòng sông là con đường mà theo đó tổ
tiên người Thái thiên di vào Việt Nam từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV.
Từ dòng Nặm Tao, người Thái ghé vào bên phải, chiếm lấy đất
Nghĩa Lộ làm bàn đạp để rồi tiến mãi đến tận Điện Biên, giáp Lào. Đất ấy, tên
Thái là Mường Theng tức Mường Trời và trở thành "cố đô" của nhiều đời
tù trưởng. Vậy nên, dòng Nặm Tao hiển nhiên là địa đầu phía Đông và biên giới
Lào là địa đầu phía Tây của vùng văn hóa Tây Bắc. Giữa hai điểm đó con sông Đà
phát nguyên từ phía Bắc kẻ một đường chéo Tây Bắc-Đông Nam, đi qua đất Hòa Bình
rồi hợp lưu với dòng Nặm Tao ở ngã ba Việt Trì để làm nên sông Cái-sông Hồng của
châu thổ phì nhiêu. Trên đường đi, sông Đà-tên Thái là Nặm Tè-tiếp nhận lượng
nước của biết bao suối nhỏ và cả một dòng sông Nặm Na hợp lưu với nó ở ngay tỉnh
lị Lai Châu. Sát với biên giới Lào là dòng sông Mã chảy từ Điện Biên xuống đến
phía Tây tỉnh Sơn La thì quặt sang đất Lào và trở về miền Tây Thanh Hóa để xuôi
về biển. Đất Tây Bắc còn được đồng bào gọi là đất "ba con sông", tạo
nên ba dải "nước màu: trắng, xanh, đỏ". Bởi vì sông Mã lắm thác ghềnh
nên nhiều sóng bạc đầu. Lại còn có truyền thuyết dòng sông là nữ thần canh giữ
mỏ bạc mà xưa kia người Thái-La Ha thường khai thác. Dòng Nặm Tè (sông Đà) chảy
giữa các triền núi đá grannít, sâu thẳm xanh đen một màu. Còn dòng Nặm Tao mang
nặng phù sa thì chính người Kinh cũng gọi là sông Hồng. Ba con sông tự nhiên
nhưng trở thành biểu tượng riêng của vùng đất. Chúng lại có ba màu của nắng, của
cây và của đất. Chúng biến thành những tín hiệu văn hóa vùng mà người dân bản địa
lấy đó làm tự hào, để phân biệt với người vùng muối (Kinh), người vùng sông Lô,
sông Chảy (Tày, Nùng) v.v...
Từ dưới xuôi đi lên phải qua đất tỉnh Hòa Bình, xưa kia phải
vượt sông Đà ở bến chợ Bờ và Suối Rút, rồi phải leo gần 100km đèo mới đến được
cao nguyên Mộc Châu, cao 800-1000m. Phải lên đến đấy mới bước chân vào vùng Tây
Bắc, nơi mà hoa ban nở trắng rừng, xen lẫn với thông reo vi vút và những rừng
tre vầu ống lớn, cây cao Chẳng thế mà Mộc Châu có tên Thái là Trảng Tre-Trảng
Ban (Phiêng Xang-Phiêng Ban). Từ cao nguyên "Tre Ban" đổ xuống thung
lũng hẹp Yên Châu để rồi leo qua dãy Chiềng Đông lại đổ xuống Nà Sản mà về Sơn
La.
Từ tỉnh Sơn La phải vượt dãy Pha đến (nơi ngăn cách Trời - Đất) đến ngã ba Tuần Giáo, rẽ trái vào Điện Biên, đi thẳng thì lên Lai Châu. Từ đây ngược nữa lên phía phải để đến đất Sìn Hồ của dãy Hoàng Liên Sơn, hãy men theo chân nó đi lên biên giới phía Bắc. Nếu ngược nữa lên phía trái là đến Mường Tè có bản Mường Nhé, nơi con gà gáy ba nước Việt-Lào-Trung đều nghe. Hành trình vừa kể trên chính là trục dọc của vùng văn hoá Tây Bắc.
Từ tỉnh Sơn La phải vượt dãy Pha đến (nơi ngăn cách Trời - Đất) đến ngã ba Tuần Giáo, rẽ trái vào Điện Biên, đi thẳng thì lên Lai Châu. Từ đây ngược nữa lên phía phải để đến đất Sìn Hồ của dãy Hoàng Liên Sơn, hãy men theo chân nó đi lên biên giới phía Bắc. Nếu ngược nữa lên phía trái là đến Mường Tè có bản Mường Nhé, nơi con gà gáy ba nước Việt-Lào-Trung đều nghe. Hành trình vừa kể trên chính là trục dọc của vùng văn hoá Tây Bắc.
Tây Bắc nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, có độ cao từ
800-3000m nên khí hậu ngả sang á nhiệt đới và nhiều nơi cao như Sìn Hồ có cả
khí hậu ôn đới. Địa hình lại chia cắt bởi các dãy núi, các dòng sông, khe suối,
tạo nên những thung lũng, có nơi lớn thành lòng chảo như vùng Nghĩa Lộ, Điện
Biên. Tây Bắc còn là nơi có nhiều tiểu vùng khí hậu. Trong lúc đó ở thung lũng
Mường La, người ta mặc áo ngắn tay giữa mùa đông thì ở Mộc Châu phải mặc áo
bông dầy mà không khỏi rét. Chính vì vậy mà thiên nhiên Tây Bắc rất đa dạng, thổ
nhưỡng nhiều loại hình thể. Dân số thấp, năm 1978 mới có 59 người/km2. Với tỉ lệ
tăng 3,5% năm, cộng với việc di dân, đến năm 1990 cũng chỉ có 120 người/km2. Cư
dân cổ truyền, những chủ nhân từ xa xưa của Tây Bắc, đều làm nông nghiệp với
hai loại hình: ruộng nước ở thung lũng, và nương rẫy ở sườn núi.
Câu ngạn ngữ Thái miêu tả:
Xá ăn theo lửa
Thái ăn theo nước
H'mông ăn theo sương mù.
Dân tộc Thái đa số làm ruộng nước trong các thung lũng, các
vùng lòng chảo. Người Mường và một bộ phận người Dao cũng thế. Nhưng ngay những
dân tộc Thái cũng phải làm thêm nương rẫy thì mới đủ sống. Dân tộc Xá, theo tên
gọi miệt thị xưa, bao gồm nhiều tộc khác nhau như Khơmú, Laha, Kháng, Mảng,
Xinhmun... Họ làm nương theo phương pháp thô sơ: phát rừng, đốt lấy tro, chọc lỗ
tra hạt. Còn người H'mông thường ở núi cao, cũng phát rừng, biết dọn gốc, cày xới
làm nương thâm canh. Ruộng và nương chỉ giải quyết được lương thực và một phần
rau xanh. Thịt, cá, rau và cả lương thực khi mất mùa, đều còn phải trông vào
hái lượm, săn bắt.
Cho nên các dân tộc có câu:
"Cơm, nước ở mặt đất
Thức ăn ở trong rừng"
Hiện tại địa bàn Tây Bắc
gồm bốn tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Yên Bái. Khi nói đến vùng văn hóa Tây Bắc
thì phải kể một phần tỉnh Hoà Bình. Năm 1955 đổi
thành khu tự trị Tây Bắc, vì tên cũ Khu Tự trị Thái Mèo không phản ánh hết tên
của gần hai chục dân tộc sinh sống ở đây. Chỉ kể những dân tộc tương đối đông
dân như Thái (ngành Đen, Trắng, Đỏ). H'mông với các ngành Trắng, Xanh, Đen,
Hoa, Dao (ngành Quấn chẹt, Nga Hoàng, Dao đỏ), Mường, Khơmú, Laha, Xinhmun,
Tày... Ngoài ra, còn có một bộ phận người Kinh vốn là con cháu nghĩa binh Hoàng
Công Chất đã sống lâu đời ở đây, và một bộ phận người Hoa, vốn là dòng dõi quân
Lưu Vĩnh Phúc. Mỗi dân tộc đều có văn hóa mang bản sắc riêng. Quả là khó khi muốn
nói về văn hoá cả vùng với một quần thể cư dân đa dạng, tính chất vùng của văn
hóa Tây Bắc vẫn hiện ra không thể phủ định. Cần phải ngược dòng lịch sử, nhưng
không thể quá xa vì chẳng lấy đâu ra lịch sử cổ, nay chỉ cần tìm đến đầu công
nguyên là đã bắt gặp cơ tầng văn hóa của miền Tây Bắc.
Ngày xưa cư dân đất Tây Bắc vẫn là một bộ phận của nền văn
minh đồng thau Đông Sơn với trống đồng và công cụ bằng đồng, những thứ mà ngày
nay đã trở thành vật thiêng, chỉ dùng trong các nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Trong
số cư dân, người Kháng có tục uống nước bằng mũi (Ta mui). Nước măng chua, hòa
tỏi, rau thơm, gạn lấy nước, đổ vào vỏ quả bầu mận, cho chảy vào mũi, trong lúc
ấy miệng thì nhai cá hay thịt. Cách uống này vẫn còn thấy ở người Kháng sống ở
ven sông Đà, phía bên Tà Xại, Sơn La. Đặc biệt người Kháng rất giỏi làm thuyền
độc mộc. Người Thái phải công nhận "Thuyền tốt không gì bằng thuyền
Kháng".
Còn người Laha thì mãi đến ngày nay vẫn được người Thái tôn
sùng vì được coi là chủ nhân trống đồng. Bởi vì cả người Laha lẫn người Thái đều
có trống đồng làm vật thiêng, có thần trú ngụ. Người Laha cũng nổi tiếng về hội
lễ "Mừng mùa măng mọc" với điệu múa thực khí sinh động, rộn ràng
trong tiếng đệm của một đàn ống tre rỗng, gõ trên tấm ván với những cô gái nhún
nhảy múa.
Đến những năm 60 của thế kỷ 19 dân tộc Mảng vẫn còn bảo lưu
xăm những chấm, những vòng tròn có chấm ở giữa, quanh miệng và cằm. Vì thế người
Thái gọi họ là "Xá cằm hoa" (Xả công Lái), tức người Xá cằm xăm hoa.
Tất cả những nét đặc trưng như trống đồng, thuyền độc mộc,
nhạc cụ tre nứa, tục xăm mình, đều như phảng phất những gì đã từng được sách chữ
Hán cũng như các truyền thuyết nói về xứ sở của các vua Hùng.
"Vào khoảng thế kỷ XI-XII, một bộ phận tổ tiên ngành
Thái đen... do Tạo Ngần thiên di xuống chiếm miền Mường Lò mà Người Kinh cũng vậy,
họ gọi là Đông cổ thần cánh đồng Nghĩa Lộ là trung tâm". Cháu Tạo Ngần là
Lạng Chượng cầm binh đánh thắng các bộ tộc Nam á từ Nghĩa Lộ qua Sơn La và tới
Điện Biên..., cuộc hành trình của Lạng Chượng mở đầu "giai đoạn bọn thống
trị Thái làm chủ miền Tây Bắc"
Theo sách dã sử và truyền thuyết của chính người Thái, Lạng
Chượng phải chật vật lắm mới thắng nổi quân Nam á. Truyền thuyết Thái kể rằng:
"Quân Xá" (tức Nam á) có tên làm bằng đồng sắc nhọn, quân Thái chỉ có
tên tre. Lạng Chưng mới lập mưu thách nhau bắn xem tên ai cắm vào đá là thắng
Quân Xá bắn tên đồng vào đá thì bật ra. Quân Thái nạp cụm sáp ong vào đầu tên
tre nên bắn vào đá thì dính. Quân Xá "chịu thua, phải để quân Thái chiếm đất,
còn quân Xá phải chạy vào rừng sâu mà ở."
Truyền thuyết cũng kể rằng quân Xá thua, chẳng những mất đất
mà còn phải dâng trống đồng cho quân Thái. Từ đấy các dân tộc Nam á suy thoái dần,
nền văn hóa huy hoàng thuở ấy bị mai một rất nhiều. Ngày nay, trong văn hóa của
họ đã có nhiều yếu tố Thái. Chẳng hạn, họ đã hoàn toàn quên mất nền âm nhạc của
mình mà chỉ còn biết sử dụng các làn điệu lí Thái để hát. Ngược lại, người Thái
lại học được rất nhiều từ văn hóa của những người bản địa chiến bại, khiến cho
văn hoá Thái (đặc biệt là Thái Đen), Tây Bắc loại biệt hẳn với văn hoá những
người anh em chung cội nguồn của họ như người Tàu phía Đông và người Lào phía
Tây. Chính quá trình hỗn dung và tiếp biến văn hóa đó đã tạo nên sắc thái vùng
văn hóa Tây Bắc, thông qua văn hóa Thái là chủ thể.
Từ mươi thế kỷ trở lại đây, vai trò chủ thể trong lịch sử
phát triển của vùng, văn hóa Thái (với những yếu tố diễn biến từ văn hóa Đông
Nam á nổi lên như một sắc thái đại diện cho văn hóa Tây Bắc.
Trước hết xin bắt đấu từ văn hóa "đời thường". Từ
cao nguyên Mộc Châu xuôi xuống thung lũng Yên Châu ở phía Bắc là đã bắt gặp những
ngôi nhà sàn ẩn hiện những dãy cây xoài, rặng chuối. Nhà sàn Thái có cái mái đầu
hồi khum khum hình mai rùa, trên đỉnh đầu hồi ấy có hai vật trang trí, người
Thái gọi là "Sừng cuộn" (Khau cút) vì đầu phía trên của nó thường được
thao tác thành một vòng tròn xoáy trôn ốc, giống như ngọn rau đớn (Phắc cút), một
thứ rau rừng rất được đồng bào ưa chuộng. Bản Thái thờng nằm ở ven đồi, chân
núi, nhìn ra cánh đồng. ở đấy thế nào cũng có ít nhất một dòng suối to nhỏ tùy
nơi. Bản nào ở chân núi đá thì hay dùng mạch nước ngầm làm nước ăn, gọi là
"Mỏ nước" (Bó nặm). Văn hóa nông nghiệp thung lũng Thái nổi tiếng vì
hệ thống tưới tiêu, được gói gọn dốc của dòng chảy, người ta lấy đá ngăn suối
làm nước dâng cao, đó là cái "phai". Phía trên "phai" xẻ một
đường chảy lên dẫn vào cánh đồng, đó là "mương" Từ "mương"
xẻ những rãnh chảy vào ruộng, đó là "lái". Còn "lịn" là
cách lấy nước từ nguồn trên núi cao, dẫn về ruộng, về nhà, bằng các cây tre đục
rừng đục mấu, nối tiếp nhau, có khi dài hàng cây số. Người Kinh vùng núi Phú Thọ
(cũ) học theo cách làm này và gọi chệch đi là "lần nước". Do chủ động
tưới tiêu nên người Thái nuôi cá ngay trong mực nước của ruộng lúa. Gặt lúa
xong là tháo nước bắt cá. Cá nuôi trong ruộng vừa ăn sâu bọ cỏ dại, vừa sục bùn
cho tốt lúa. Cho nên, món dâng cúng trong lễ cơm mới bao giờ cũng có xôi và cá
nướng. Và món cá là biểu hiện lòng hiếu khách :
"Đi ăn cá, về nhà uống rượu
ở thì ngủ đệm, đắp chăn ấm"
Những dòng suối còn đóng vai trò quan trọng trong tâm linh
con người. Suối được coi là vật nữ tính: "con suối" (Me nặm). Suối lại
là nơi trú ngụ của thần nước, thường ở những đoạn nước cuốn thành vực (Vắng
năm). Hàng năm, khi làm lễ cúng bản (Xên bản) vào mùa xuân, người ta tổ chức
ngay trên bờ vực nước đó. Có một tâm thức tín ngưỡng với nước là đặc điểm chung
của các tộc người làm nông nghiệp. ở người Thái, tâm thức đó được thể chế hóa bằng
hình tượng thần nước dưới dạng thuồng luồng và bằng các lễ cụ thể. Con suối và
cánh đồng, những sản phẩm sáng tạo và chiếm lĩnh của con người cũng đã đi vào
thơ ca, âm nhạc như những hình tượng đẹp của cảm xúc thẩm mĩ như lời bài dân ca
sau :
"Đêm trăng sáng
Tâm hồn em như muốn phiêu diêu
Chơi tha thẩn bên bờ cát trắng
Bờ cát trắng lấp lánh ánh trăng
Chờ tiếng sáo anh
Luồn qua sương, luồn qua chân núi
Đến với em trong ánh trăng ngời ngài."
Nương rẫy là một bộ phận bổ sung không thể thiếu với nơng, đồng bào có lúa, rau quả như bầu bí, rau cải, đậu, đu đủ, vừng, kê, ớt,.v..v... Bông và chàm cũng trồng trên nương. Và rừng, rừng bạt ngàn là nơi con người hái rau rừng, lấy thuốc chữa bệnh, thuốc nhuộm, săn bắt thú rừng và khi thất bát mùa màng thì chính rừng, với củ mài, bột báng đã cứu họ khỏi chết đói. Bản làng có một thái độ rất kính trọng với rừng. Chẳng phải vì rừng có ma thiêng, mà vì rừng là nơi con người nương tựa để tồn tại. Luật Thái có hàng chục điều quy định về việc khai thác rừng, săn bắn thú, đặc biệt là những quyết định về bảo vệ rừng đầu nguồn.
Cũng như hầu hết các dân tộc trong vùng, người Thái sống chân thật, giản dị và rất hòa thuận. Trong gia đình, trong bản không bao giờ thấy người ta to tiếng với nhau. Đặc biệt không bao giờ trẻ con bị mắng mỏ nặng lời, chứ không nói đến việc bị đánh đòn. Trẻ con hiểu nhiệm vụ của chúng và rất tự giác thực hiện. Chúng có sai sót gì, người lớn chỉ nhắc nhẹ. Trẻ em rất ngoan, chúng chơi đùa với nhau rất thân ái. Gặp lúc khó khăn, đói kém người ta đến họ hàng xin lương thực. Người được hỏi xin sẵn sàng chia sẻ số lương thực còn lại, dù biết rằng sau đó chính họ cũng sẽ lâm vào cảnh thiếu đói và cũng phải lên rừng đào củ mài, củ bới thay cơm. Ngay bây giờ, khi nền kinh tế thị trờng đã có tác động vào đời sống cư dân Tây Bắc, thì phong tục này vẫn được thực hiện với tấm lòng vị tha và tình nghĩa sâu đậm.
Nhân đây cần nói ngay rằng nếp sống hòa thuận, tôn trọng
người già, thương yêu con trẻ và giúp đỡ nhau vô tư là đặc điểm chung của các
dân tộc trong vùng Những kì thị dân tộc không phải không có, nhưng rất hiếm và
phần nhiều là cách đánh giá của giới quý tộc Thái, còn giữa những người lao động
thì hầu như không có. Cho nên, khi đói kém, anh em H'mông ở núi cao xuống, bà
con Khơmú, Mảng trong rừng sâu ra, bản Thái sẵn sàng chia sẻ. Ngược lại, cũng
có năm, bản Thái lượt kéo nhau lên núi cao để khi về kĩu kịt những tặng phẩm của
bà con người H'mông. Vào những năm tháng kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đồng
bào Thái lại đợc anh em các dân tộc Nam á giúp đỡ tận tình ở nơi sơ tán. Nhìn
nhận hiện tượng này, các nhà kinh tế học cho rằng đó là hệ quả của một xã hội
chưa biết đến thương nghiệp với vật ngang giá là đồng tiền. Cũng có thể là như
vậy. Nwng nếu tiếp cận từ góc nhìn văn hóa thì cũng phải công nhận đây là một
thuần phong mĩ tục trong quan hệ giữa người các dân tộc với nhau. Nếu không thế
thì không thể giải thích được, vì sao ngày nay trong cơ chế kinh tế thị trường,
phong tục truyền thống vẫn được giữ vững và sẽ không hiểu thế nào được sự tồn tại
suốt mấy chục năm của các "quán tự giác" trên khắp nẻo đường Tây Bắc.
Đồng bào treo chuối, mía, trứng, để giá tiền vào từng loại, khách qua đường tự
lấy ăn rồi bỏ tiền vào cái túi vải treo cạnh đó. Khách có tiền lớn thì có thể đổ
tiền trong túi ra, tự lấy tiền thừa rồi bỏ tiền của mình và số tiền sẵn có của
quán hàng trở lại vào túi. Chủ quán không có mặt, nhưng chẳng ai dám cả gan ăn
cắp - kể cả những lái xe người Kinh thích đùa đi qua đường.
Các dân tộc trong vùng đều có tín ngưỡng "mọi vật có
linh hồn" (animisme), một loại tín ngưỡng mà mọi dân tộc. trên hành tinh đều
trải qua. Có đủ loại "hồn" và các loại thần sông núi, suối khe, đá,
cây, súc vật, các lực lượng thiên nhiên như sấm, chớp, mưa, gió. Các bộ phận
trên thân thể con người cũng có hồn. Người Kinh cho rằng có ba hồn bảy vía
(nam) và ba hồn chín vía (nữ). Người Thái có đến 80 hồn (Xam xếp khoăn mang nả.
Hả xếp khoăn mang lăng), như hồn tóc, hồn lông mày, lông mi, tai, mũi, trán
v.v... Người chết không biến mất mà trở về sống ở bản của tổ tiên. Do chỗ mọi vật
đều có hồn, nên cần phải cư xử với chúng như trong quan hệ với người. Vậy có hồn
tốt, hồn xấu, hồn ác, hồn lành tùy thuộc vào cách đối xử của người với chúng.
Vào hoàn cảnh xã hội cổ truyền thì đây là cách chiếm lĩnh thiên nhiên và thực tại
của đồng bào, với hi vọng có thể nói chuyện", có thể "thương lượng thậm
chí khi cần thì cầu xin chúng. Bằng cách đó, đồng bào thiết lập được mối quan hệ
với mọi vật và với tổ tiên, đặt con người vào tống thể môi trường không gian và
thời gian, tạo nên một cân bằng trong tâm thức. Con người hội tụ vào cuộc sống
hiện hữu của mình các miền thời gian : quá khứ, hiện tại, tương lai; và các chiều
không gian, thiên nhiên, môi trường, con người, xã hội. Đó chính là mối quan hệ
đa diện, đa phương đảm bảo cho tính hợp lí và sự ổn định tất yếu của cuộc sống
con người. Thiết tưởng, với trình độ khoa học kĩ thuật chưa phát triển thì cách
nhận thức thế giới theo phương pháp huyền thoại, tín ngưỡng này không phải
không có tác dụng tích cực cho sự tốn tại của cộng đồng và con người.
Văn hóa nghệ thuật, lĩnh vực văn hóa thể hiện cái nhìn thẩm
mỹ của nhân dân Tây Bắc có nhiều nét độc đáo và trở thành một trong những dấu
hiệu làm nên đặc trưng văn hóa vùng. Riêng về lĩnh vực này đã phải cần đến một
công trình lớn mới có thể trình bày cho cặn kẽ được. Cho nên, một vài điều nêu
ra đây may mắn lắm cũng chỉ là những nét chấm phá vào một toàn cảnh lớn lao,
hoành tráng và mang đậm tính dân gian. Trong xã hội cổ truyền Tây Bắc, văn hóa
chuyên nghiệp, bác học chưa xuất hiện. ở người Thái tuy đã có một vài nghệ nhân
giỏi sáng tác thơ ca nổi tiếng và mặc dầu dân tộc này có chữ viết cổ, nhưng tác
phẩm của họ vẫn lưu truyền chủ yếu bằng phương thức truyền miệng. Mỗi dân tộc
trong vùng đều có một kho vốn sáng tác ngôn từ giàu có và đủ thể loại từ tục ngữ,
thành ngữ, đồng dao, giao duyên, cho đến lời khấn, lời bùa chú, các áng văn
trong lễ tang, trong lễ hội, các bài văn vần dạy bảo đạo đức cho dâu rể trong
đám cưới, các thần thoại, đồng thoại, cổ tích, truyện cười v.v... ở một số dân
tộc có cả truyện thơ dài hàng ngàn câu như Tiễn dặn người yêu (Thái), Tiếng hát
làm dâu (H'mông), Vườn hoa núi Cối (Mường) v.v... Người Thái còn có cả truyện
thơ lịch sử, kể lại quá trình thiên di của họ vào Tây Bắc như bản sử ca Dõi
theo bước đường chinh chiến của ông cha (Táy pú Xớc) hay Lịch sử bản mường
(Quán tố mướng) ngay đến lời hát của các Mo-then trong lễ cúng người ốm cũng là
một áng du kí ca đầy hình tượng đẹp được diễn tả bằng văn phong trau chuốt. Bộ
phận người Mường Tây Bắc cũng có những thiên sử thi như ở Hòa Bình, Thanh Hóa.
Ngoài ra, do đã tách ra từ mấy thế kỉ và sống giữa những cộng đồng tộc người
khác, nên người Mường Tây Bắc còn có những áng văn hiếm thấy ở các vùng Mường
như "vườn hoa - Núi cối" chẳng hạn. Các truyền thuyết của từng dân tộc,
một mặt khẳng định nguồn gốc của họ với những nhóm đồng tộc cư trú ở các vùng
văn hóa khác ; mặt khác lại gắn bó với vùng đất và trình diễn lịch sử của họ
trên mỗi đất miền này, và góp phần làm nên dấu hiệu đặc trưng của vùng văn hóa
Tây Bắc. Có thể gặp những truyền thuyết như thế trên từng bước chân. Đây là nơi
chúa Thái và chúa Xá thì bắn xem tên ai xuyên vào đá, kia là nơi Nàng Han (một
Gianđa Thái) tắm (Suối Nàng Han). Dãy núi ba chỏm kia là thi hài hóa đá của ba
dũng tướng quên mình bảo vệ quê hương v.v.. .. Và đặc biệt là những truyền thuyết
về hoa ban, dân tộc nào cũng có và cũng thắm đượm tình người. "Xòe"
là đặc sản nghệ thuật múa Thái và trở thành biểu tượng văn hóa Tây Bắc. Người
Thái có Xòe vòng quanh đốm lửa, quanh hũ rượu cần với sự tham gia đông đảo của
già trẻ, gái trai trong tiếng chiêng trống rộn ràng. Nhưng cũng có Xòe điệu của
người Thái trắng ven sông Đà suốt từ Ngọc Chiến, Quỳnh Nhai lên đến Lai Châu,
Phong Thổ. Tương truyền có đến 32 điệu xòe do các cô thanh nữ múa trong tiếng
tính tang dịu dàng của hai chàng trai. Xoè vòng sôi nổi bao nhiêu thì xòe điệu
nhẹ nhàng, tinh tế bấy nhiêu. Người H'mông nổi tiếng về các điệu múa khèn, đá
châm hùng dũng của nam giới. Người Khơmú và Xinhmun lại độc quyền điệu múa lắc
mông, lượn eo. Còn điệu Tăng bu (dỗ ống) là sở hữu của người Laha. Và đến với
người Mường thì phải được xem múa bông. Riêng điệu múa Xạp, trừ người H'mông
còn dân tộc nào trong vùng cũng có, mỗi nơi một vẻ riêng. Có thể xem nghệ thuật
múa dân tộc là một nét đặc trưng của vùng Tây Bắc.
Dường như có một sở thích âm nhạc chung cho hầu hết các dân
tộc Tây Bắc, một sở thích không thấy hoặc ít thấy ở các vùng khác. Đó là hệ nhạc
cụ hơi có lưỡi gà bằng tre, bằng đồng hay bằng bạc. Nếu sưu tầm và gộp chung lại
thì có đến vài chục loai hình thuộc hệ nhạc cụ này. Nhiều loại đã được cả nước
biết đến như Pí pặp, khèn bè Thái, sáo và khèn H'mông. Ngoài ra, mỗi dân tộc đều
có bản sắc riêng như cây Tính Tảu Thái, đống ôi Mường, chưn may Khơmú, đàn tròn
và đàn ba dây Hà nhì v.v . . . ở nhiều dân tộc khác, thơ ca Tây Bắc được sáng
tác để hát, chứ không phải để đọc. Những truyện thơ, những áng sử thi được
trình diễn bằng cả những liên khúc âm nhạc mà nhiều bài trích ra từ đó đã được
cả nước biết đến như bài "inh lả ơi" chẳng hạn .
Nét chung nữa trong văn hóa Tây Bắc là sở thích trang trí
trang phục, chăn màn, đồ dùng với các sắc độ của gam màu nóng ; rất nhiều màu đỏ,
xen vào với vàng tươi, vàng đất, vàng rơm, rồi da cam, tím và nếu có xanh thì
phải là xanh da trời tươi Phải chăng giữa mênh mông xanh lá cây, những màu ánh
lên như những điểm sáng, khẳng định sự có mặt của con người ? Còn họa tiết, bố
cục, phối màu của trang trí thì rất nhiều và phong phú, đến nỗi chỉ một chiếc
khăn piêu Thái, một bộ nữ phục H'mông, Lô Lô, Dao đỏ, một mặt chăn Mường, một
điểm màn Kháng cũng đủ tầm cỡ để phải làm riêng một chuyên khảo . Những nét
chung của cả vùng không hề làm mất đi tính riêng của văn hóa dân tộc. Thậm chí,
cùng một cốt truyện, ở mỗi dân tộc vẫn có thể tìm thấy cái riêng. Lấy một chuyện
bi tình sử có ở nhiều dân tộc Tây Bắc làm ví dụ : "một đôi trai gái yêu
nhau nhưng vì lý do nào đó họ không lấy được nhau và cùng tự tử chết".
Truyền thuyết của các dân tộc khác nhau, đương nhiên sẽ kết thúc khác nhau. Hẳn
là những nét phác họa ở đây nhiều lắm cũng chỉ là gợi mở về một vùng văn hóa đa
dạng và độc đáo hi vọng rằng có thể dẫn dắt chút ít cho những ai muốn tìm hiểu
sâu thêm về vùng văn hóa Tây Bắc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét