"Gầu va nhéng" Tiếng hát làm dâu (Bùi Huy Mai)

Mỗi dân tộc ở Yên Bái đều có các thể loại dân ca đậm sắc thái tộc người. Nếu dân tộc Thái có "Xống chụ xôn xao" (Tiễn dặn người yêu), dân tộc Tày có "Khảm hải" (Vượt biển) thì dân tộc Mông có "Gầu va nhéng" (Tiếng hát làm dâu), một khúc ca bi tráng nói về thân phận làm vợ nhà người dưới thời phong kiến. "Gầu va nhéng", nghĩa phổ thông là "Tiếng hát làm dâu". Đây là một trong 5 thể loại thuộc "Hu gầu" mà người Mông thường gọi là "Tiếng hát Mông".

"Gầu va nhéng" là từ chỉ chung cho thể loại, chúng có gần 20 bài với những nội dung, lời ca, làn điệu khác nhau, song tất cả đều là lời khóc than, oán trách cuộc đời, số phận khốn khổ của người phụ nữ. Có thể thấy những điều này qua các bài: "Chỉ tâu xỉ dua" (Không lấy được nhau); "Cúa nả chí" (Khóc bố mẹ) "Cầu mung kế cầu, cầu mung kế cú" (Đôi đường) hay "Làm dâu nhà người", "Ý tả chí phổng cao" (Không gặp mày nữa...).
Tất cả các bài trong "Gầu va nhéng" chỉ duy nhất có một bài đặc sắc, vượt trội, thậm chí điển hình (có thể sánh ngang với "Xống chụ xôn xao", "Tản chụ xống sương"). Đấy chính là bài "Tiếng hát làm dâu" mà chúng tôi giới thiệu dưới đây.
"Tiếng hát làm dâu" là một trường ca, cấu trúc thành chương, đoạn khá rõ. Mỗi chương, đoạn một nội dung, một sự việc, một lối nghĩ. Xâu chuỗi các chương, đoạn là một câu chuyện bi ai về kiếp làm dâu của người phụ nữ xưa. Lối diễn tả bằng lời hát độc đáo, đi vào cõi lòng con người mà được cộng đồng người Mông tiếp nhận, lưu truyền, được các nhà nghiên cứu Folklore biết đến.

Chương 1, cô gái Mông ngỡ ngàng:
..."Nàng đang ở nhà, nàng không biết
Nhà trai sang ô, dù la liệt
Ô, dù ngoắc cột nhà
Thế là nàng thành vợ, nàng làm dâu..."

Đoạn 2 chương này kêu than luôn:
..."Như trâu nặng nề đeo ách
Như trâu mang buộc cọc tre
Kéo cày từ sáng đến trưa
Phận làm dâu chẳng có ngày nghỉ...".
Cũng giống trong "Xống chụ xôn xao", người con gái ở đây phản ứng thói tham lam tiền bạc của mẹ cha mà nỡ ép uổng, gả bán mình cho nhà người ta làm vợ:
..."Giận mẹ cha đem lòng tham bạc
Nỡ đem nàng đi gả bán
Chín bạc sừng cùng bạc nén
Để thân nàng thành dâu như kiếp ngựa trâu..."
Biết vậy nhưng cha mẹ vẫn khăng khăng:
"...Đã nhận tiền của họ
Mày không đi, cha xả thịt mày"
Rồi:
"...Tiếng roi đồng vun vút
Đuổi con đi để được bạc tiền...".
Nàng chỉ còn biết:
..."Mẹ sinh con phận làm gái
Phải lão mối lái buộc duyên
Mẹ ơi con đã biết gì
Cánh chim thơ dại xua về làm dâu...".

Chương 2, từng đoạn một, tiếp tục tố cáo cảnh làm dâu xứ người:
..."Suối sâu cõng được thùng nước sạch
Mẹ chồng chê nước đục mắng em"
Thậm chí:
..."Nấu cơm chẳng được nếm
Mẹ chồng chửi: em liếm 3 muôi..."
Rồi cảnh:
"...Phải chồng hèn em nhục biết bao
Ba trăm roi bật máu
Gậy họ phang, họ đập"...
Bị hành hạ, đôi khi người vợ phản kháng:
"...Anh không lấy tôi thì thôi
Tôi gọi người nhà, tôi về..."
Hoặc chống đối thói độc ác của mẹ chồng:
"...Bà không ưa tôi hãy gọi họ
Họ nhà tôi tới, tôi theo chân họ về
Lúc ấy tôi sẽ vỗ tay
Vui như người đi làm ăn xa...".
Nói thì nói vậy, đã là sự gả bán thì thoát sao nổi. Cuộc đời làm dâu như thế, hỏi sống làm gì?
"...Lá ngón đây thà chết cho xong
Đắng cay, hơi thở cuối cùng...".
Cô gái làm dâu không còn nữa:
"...Em yêu, chết không còn nữa
Hồn em, hờn căm khạc nhổ xuống trần
Không còn nước mắt, con đường khóc
Kiếp làm dâu xưa, ôi tù tại gia..."

Kết thúc "Tiếng hát làm dâu" là kết thúc buồn. Tuy nhiên, từ trong sâu thẳm đau đớn của người phụ nữ xưa, còn là tiếng hát lên án thói hư tật xấu cùng tội ác chà đạp lên nhân phẩm của họ. Đấy chính là khúc ca bi tráng, nét đẹp đặc sắc trong "Gầu va nhéng" - "Tiếng hát làm dâu" của dân tộc Mông thời xa xưa.
Bùi Huy Mai

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét