Vài Nét khái quát về dân tộc Cơ Ho (Lâm Thanh Hiền)

Tên tự gọi: Cơ Ho.
Nhóm địa phương: Srê, Nộp ,Cơ Dòn, Chil, Lạt (Lạch) .  ( theo danh mục thành phần của các dân tộc thiểu số việt nam công bố năm 1979).
Dân số: khoảng 128.723 người (tháng 4/1999)
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử: Dân tộc Cơ Ho có lịch sử cư trú lâu đời ở Tây Nguyên.

*Tộc danh : tộc danh Cơ ho và mỗi tên gọi nhóm địa phương nói trên đều mang những ý nghĩa riêng xác định :
- Cơ ho có nghĩa là người ở trên núi;
- Srê:người làm ruộng ;
- Nộp : người sống quanh núi Nộp và suối Nộp,có tục trồng cau và ăn trầu;
- Cơ Dòn :là người sống quanh suối Cơ Dòn, một con suối lớn nằm ở phía Namhuyện Lâm Hà ngày nay ;
- Chil là người sống trên núi cao,nơi có rừng già chỉ biết làm nương rẫy ;
- Lạt hay Lạch là người cư trú ven suối Lạt,noiỷ có nhiều lau lách,với các loại cây đặc trưng là cây lạt giống như cây mía.
Dân tộc Cơ Ho là cư dân sinh sống lâu đời ở cao nguyên Lâm Đồng,dọc theo quốc lộ số 20 từ phía Bắc thành phố Hồ Chí Minh đi thành phố Đà Lạt.
Tổ tiên người Cơ Ho cư trú xen lẫn với: Mnông, Mạ nên ảnh hưởng giao hòa. Có những nhóm người Cơ Ho chúng ta mới gặp, khó phân biệt với Mnông,Mạ ,đây cũng là nét đặc trưng của người Cơ Ho.
Truyền thuyết của người Nộp cho rằng , vốn xưa các nhóm Cơ Ho chỉ là một, về sau mới chia dần ra , trong đó , người Nộp được coi là mẹ , Cơ Dòn được coi là cha, còn Srê là con (?)
Ngày nay có nhiều nhóm địa phương trong cộng đồng dân tộc Cơ Ho.
+ Nhóm Cơ Ho Srê :  là nhóm có dân số đông nhất. Họ có mặt ở hầu hết các huyện của tỉnh Lâm Đồng, tập trung nhất là ở Di Linh, một số sinh sống ở vùng sông Lũy thuộc tỉnh Thuận Hải.
+ Nhóm Cơ Ho Chil : Trước đây, họ sống rải rác trên vùng núi cao thuộc thượng lưu sông Krông Knô ,Krông Bung ,Bắc và Tây- Bắc cao nguyên Lang Biang. Nhưng do sống du canh, du cư, nên từ lâu, họ đã di chuyển xuống phía Nam , cư trú vùng Bắc và Đông- Bắc thành phố Đà Lạt, gần với địa bàn cư trú của nhóm Cơ Ho Lạt, người Chu Ru và Raglai. Hiện nay, họ cư trú trên địa bàn các huyện Đức Trọng,  Đơn Dương và vùng phụ cận thành phố Đà Lạt...
+ Nhóm Cơ Ho Lạt: cư trú tập trung ở xã Lát và một số vùng thung lũng xung quanh thành phố Đà Lạt. Người Lạt có điều kiện tiếp xúc, giao lưu lâu dài với người Kinh, nên đời sống kinh tế nhóm này có những tiến bộ nhất định so với các nhóm Cơ Ho khác.
+ Nhóm Cơ Ho Nộp: cư trú phía Nam Di Linh, ven đường số 6 từ Di Linh đi Phan Thiết. Do có quá trình giao lưu văn hóa xã hội lâu đời với các dân tộc anh em ở Bình Thuận, nhất là người Chăm, nên người Cơ Ho Nộp còn lưu giữ một số yếu tố văn hóa của các dân tộc đó như tục ăn trầu, và trồng trầu, cau xung quanh địa điểm cư trú .


+ Nhóm Cơ Ho Cơ Dòn :cư trú ở miền núi phía Đông- Nam Di Linh, gọi là vùng Gia Bắc, kế cận với địa bàn cư trú của người Cơ Ho Nộp, tập trung đông nhất tại xã Đinh Trang Hòa, huyện Di Linh.
Ở người Cơ Ho , ý thức về tộc người Cơ Ho chung dường như mờ nhạt , trong khi ý thức về các nhóm địa phương lại rất đậm nét. Trong tiếng Cơ Ho , thuật ngữ chỉ người được gọi là chau hay chor . Trong ngôn ngữ thường nhật , rất ít khi nghe các nhóm địa phương của dân tộc dùng thuật ngữ Chau Cơ ho để chỉ về mình , trong khi thuật ngữ Chau/chor + tên nhóm địa phương: chau Srê, chau Nộp…lại phổ biến.
Tuy vậy các nhóm địa phương Cơ ho đều chung sống với nhau rất đoàn kết và tạo thành nhóm Cơ Ho thống nhất.
Những lưu ý chung đối với khách khi “ nhập gia” của người Cơ Ho:
Bàn thờ là chốn linh thiêng nhất đối với mỗi gia đình người Cơ Ho. Bàn thờ ngày trước làm bằng ván gỗ có chạm trổ nhưng nay hầu như không còn nữa.  Giờ đây khi đặt chân vào nhà người Cơ Ho , chúng ta phải quan sát kỹ mới nhận ra chỗ thờ cúng nhờ những nhánh cây, bông lúa vắt trên mái đối diện với cửa ra vào, thì mới mong khỏi thất lễ với gia đình chủ.
Trâu là con vật tổ của người Cơ ho nói riêng, các dân tộc vùng Tây Nguyên nói chung. Chính vi vậy người khách đến nhà không thể không biết điều này.
Người Cơ Ho đi theo đạo Thiên Chúa và Tin Lành  cho nên cấm kỵ nhất là nói xấu trước mặt họ về hai đạo này. Và cũng rất “dễ lấy lòng” họ nếu ai biết về hai đạo này.
Đến thăm gia đình làm nghề rèn ban cũng nên chú ý:  họ rất kỵ đàn bà goá, phụ nữ có thai lần đầu đi ngang qua nơi làm việc vì sợ hư hại sản phẩm giữa chừng.
Người Cơ ho rất yêu quý chó, họ không bao giờ ăn thịt chó. Chính vì thế khi đến nhà người Cơ ho chung ta cũng nên “cư xử nhã nhặn” với những “chú cún”.

ĐỜI SỐNG KINH TẾ:
Kinh tế của người Cơ Ho chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, ngoài ra còn có săn bắt và hái lượm lâm thổ sản và một số nghề thủ công như rèn, đan lát, dệt.
Trồng trọt và chăn nuôi:
Ngành kinh tế chủ đạo của người Cơ Ho là trồng trọt.
Làm rẫy:
Nương rẫy chiếm vị trí chủ yếu trong đời sống kinh tế của người Cơ Ho Chil,  người Cơ Ho Srê thiên về làm ruộng .
Rẫy là những mảnh đất trồng trọt bằng hoặc dốc do chặt cây , đốt rừng mà có,công cụ làm đất thô sơ, không có điều kiện thâm canh và làm thủy lợi , không sử dụng vĩnh viễn và liên tục , có thời gian bỏ hóa, từ du canh, luân canh đến du cư.
Ở tất cả các vùng, các nhóm, nương rẫy được thống nhất gọi là mir , một thuật ngữ chỉ rẫy thấy tồn tại ở nhiều dân tộc nói ngôn ngữ Môn-khơme khác thuộc Tây Nguyên như Ba Na, Mạ, Mnông.
Rẫy bao gôm nhiều loại khác nhau, phân biệt dựa trên những tiêu chí khác nhau. Lấy chất lượng rừng làm tiêu chí , có 3 loại rẫy: rẫy rừng già, được gọi là mir pri đămhay mir gốt, rẫy rừng thứ sinh 10 năm trở lên , được gọi là mir nem , rẫy rừng thứ sinh 5-7 năm , được gọi là mir ngăm , rẫy rừng non 3-5 năm gọi là mir ép, mir gợi hay mir t’pố. Trong 4 loại rẫy trên , người cơ ho ưa thích loại rẫy rừng thứ sinh 10 năm trở lên hơn cả vì loại rẫy này ít cỏ , dễ phát lại cho năng suất cao và ổn định. Rẫy rừng già tuy đất tốt nhưng lúa dễ bị lốp , cây lại to, mất nhiều công phát . rẫy rừng non ít tro lại nhiều cỏ , cho năng suất cây trồng thấp . Lấy chất đất và địa hình làm tiêu chí , có 3 loại rẫy khác nhau :rẫy phù sa nằm ở chỗ đất bằng trong thung lũng ( mir tie knang), rẫy đất ba dan nằm trên sườn đồi (mir tie dớ ) và rẫy đất mùn xám nằm ven sông suối (mir m’ut). Ngoài ra, còn phải kể tới loại rẫy bằng trên các Cao nguyên gọi là mir kơ.
Công cụ làm rẫy bao gồm rìu (sung , roắt) dùng cho đàn ông hạ cây to, dao bao gồm 2 loại :dao cán thẳng có móc ở đầu (huế,mơ ra) dùng cho phụ nữ và trẻ em chặt cành nhỏ, dao cán cong hình đầu chim , lưỡi song song với cán ( tgah, xà gạc )dùng để hạ cây nhỏ hay chặt cành to, gậy chọc lỗ (chmul coi), cuốc con (chi que) nạo cỏ (cau hnhat), gùi nhỏ trỉa lúa (kheo), gùi lớn vận chuyển lúa(sà pấc).
Quy trình làm rẫy bao gồm:chọn rẫy (đeo mir), phát rẫy (muih mir), đốt rẫy ( su psi mir), dọn rẫy (rơ đao mir), trỉa lúa (tuých coi), làm hàng rào rẫy (lơ pơ ga mir), làm cỏ (lơ hnhawts), thu hoạch (cách coi) .

Chọn rẫy:là công việc do người đàn ông đảm nhiệm , được tiến hành vào đầu tháng 12, sau khi thu hoạch xong. Người Cơ Ho Srê thường chọn đất gần nước, nơi rừng thứ sinh đã 8-10 năm tuổi trở lên, đất đồi có độ dốc tương đối vì trong vùng đó, hạ cây xong là cây có thể lăn ngay xuống hố không cần phải dọn rẫy. Bên cạnh đó, lúc lúa lên, làm cỏ dễ dàng, không phải khom lưng mệt nhọc. Sau khi chọn được đám đất ưng ý, người ta khẳng định quyền chiếm hữu bằng cách phát quang một khoảng rừng nhỏ rồi cắm trên đó một đoạn cây có 3 chạc phía trên .
Vào khoảng đầu tháng 2, người cơ ho bắt đầu phát rẫy. Phát rẫy là công đoạn vất vả và có nhiều điều phải kiêng cữ . Trước ngày đi phát rẫy, người đàn ông chủ nhà phải đoán điềm qua giấc mơ. Chẳng hạn, người cơ ho ở huyện bảo lâm mơ thấy tắm sông, nghịch cát, bế trẻ con hay không mơ gì thì là điềm tốt, sáng hôm sau có thể tiến hành phát rẫy. Nếu mơ thấy rụng răng, vỡ hàm, thối chân, thối tay, rụng tóc là điềm xấu, phải hoãn phát rẫy vào ngày khác. Trong suốt những ngày đi phát rẫy , nếu đi đường thấy con mang hay con cù lăn (một loại khỉ nhỏ, mắt to) chạy ngang qua trước mặt thì phải bỏ đám rẫy đang phát, chuyển sang chọn và phát đám rẫy khác. Việc phát rẫy tuân thủ sự phân công theo giới chặt chẽ : đàn ông dùng rìu và xà gạc chặt cây đằng trước, phụ nữ và trẻ em dùng dao có móc ở đầu phát bụi cây nhỏ và chặt cành ra khỏi cây to đã đổ phía sau. Rẫy được phát từ chỗ thấp lên chỗ cao để dễ lựa chiều cho cây dễ đổ. Với những cây quá to, người ta chỉ chặt sâu một đường quanh cây để cây khô chết dần.
Sau khi phát xong , người ta dọn một đường biên xung quanh để sau này đốt lửa khỏi cháy lan vào rừng. Thời gian phát rẫy thường kéo dài trên dưới một tháng , dưới trời nắng nóng nên rất vất vả và mệt nhọc.
Rẫy phát xong được phơi khô khoảng một tháng đến một tháng rưỡi thì đốt để gieo hạt khi mùa mưa bắt đầu (khoảng tháng tư). Việc châm  lửa đốt rẫy là do đàn ông đảm nhiệm , nhưng việc đốt rẫy nói chung lại đòi hỏi có sự tham gia của cả gia đình , thậm chí vài gia đình đổi công cho nhau vì lý do canh chừng lửa cháy lan ra rừng. xưa kia, lửa đốt nương rẫy thường là lửa tự nhiên :người ta lấy hai cục đá trắng (nụ sa ngau) đánh cho lửa truyền vào bùi nhùi làm từ đọt cây mây(go sung) phơi khô. Rẫy được đốt từ nhiều điểm xung quanh cho cháy vào giữa, tránh chỉ đốt xuôi theo chiều gió dễ gây cháy rừng . khi lửa đã bén rẫy, các thành viên trong gia đình hay trong nhóm gia đình chia nhau đi xung quanh để canh chừng lửa và dùng cành lá dập những chỗ lửa cháy lan ra ngoài.
Công việc dọn rẫy được tiến hành một ngày sau khi đốt rẫy . Người ta dọn những thân cây cháy dở thành một số đống rồi đốt lại . Những thân cây quá to , xét ra khó cháy hết, được vần ra xung quanh rẫy. những thân cây này sẽ nhanh chong bị mục nát dưới tác dụng của nhiệt độ và ẩm độ cao vùng nhiệt đới. Công đoạn dọn rẫy bao gồm việc dùng cành lá san tro trên mặt rẫy cho đều khắp. khoảng đầu tháng năm khi những cơn mưa đầu mùa đổ xuống , người cơ ho tiến hành trỉa rẫy. Việc gieo trỉa thường được làm tập thể giữa các hộ gia đình với nhau theo lối vần công, đổi công. cách thức gieo trỉa là chọc lỗ bỏ hạt . công cụ chọc lỗ là cây gậy cao 1,8-2m , làm từ cây le hay cây gỗ rừng . Nếu là gậy làm từ gỗ rừng thì đầu gậy được vót nhọn vào giữa, nếu là gậy chế từ cây le thì đầu gậy được đẽo vát móng lợn. Hạt giống ngô,lúa và bầu , bí được trộn lẫn và gieo chung trong mỗi hố. Giống các loại cây trồng còn lại được gieo riêng. Khi gieo trỉa , đàn ông dàn hàng ngang, hai tay hai gậy chọc lỗ đằng trước, phụ nữ dàn hàng ngang trỉa đằng sau. Hạt giống đựng trong ống nứa to cầm tay trái, hay trong gùi nhỏ đeo ngang hông. Khi gieo, tay trái cầm ống hạt giống hay lấy hạt giống trong gùi hay dùng các ngón tay phải đổ ra tay trái, tay trái bỏ hạt giống vào hố, sau đó tay phải dùng ống hạt giống khẽ lấp đất để chống nắng và chống chim ăn. Trên mỗi đám rẫy, các cây trồng được bố trí theo những nguyên tắc nhất định. thường thì lúa ,ngô,bấu,bí được gieo ở giữa, bao xung quanh là bo bo,sắn,ngoài cùng là thuốc lá, bông dệt vải và các loại cây ăn quả như : chuối, dứa ,mía. Đôi khi cây bông và câuy thuốc lá được gieo thành đám riêng ở mỗi góc rẫy. việc gieo trỉa được tiến hành ngang theo sườn rẫy, từ chỗ thấp lên chỗ cao. Trên rẫy, người Cơ ho đa canh nhiều loại cây khác nhau,trong đó lúa là cây trồng chính. Riêng ở người Chil , cây trồng chính lại là ngô, thứ đến mới là lúa.
Sau khi trỉa xong vài ngày, để chống thú rừng và gia súc phá hoại, người Cơ ho tiến hành làm hành rào rẫy để chống phá thú rừng và gia súc phá hoại. Cùng với việc làm rào, trên mỗi đám rẫy người Cơ ho làm một nhà rẫy để tiện nghỉ ngơi và bảo vệ rẫy khi sắp dến mùa thu hoạch. Tiếp theo là làm cỏ rẫy. Dụng cụ làm cỏ là chiếc nạo giống con dao cong cắm vào chuôi bằng gỗ.
Thu hoạch là công việc cuối cùng của chu kỳ canh tác rẫy. Ngô được thu hoạch sớm vào đầu tháng 9,lúa được thu hoạch sau, bắt đầu từ cuối tháng 10,kết thúc vào giữa tháng 11.
Mỗi gia đình Cơ ho xưa đều chọn rẫy và làm rẫy trong khu vực thuộc ranh giới của làng mình. Ranh giới của mỗi làng là một đường khép kín , được xác định bởi các cột mốc giới tự nhiên như ngọn núi, dòng sông hay quả đồi. người làng này muốn qua làng khác phát rẫy phải xin phép và được sự đồng ý của làng sở tại, kèm theo việc nộp cho làng sở tại một ché rượu , một con gà, gọi là khạ sa p’ri. Mỗi làng đều có một khu rừng đầu nguồn nằm ở phía trên cao , nơi cấm mọi hành vi phá rừng làm rẫy,tiếng Cơ ho gọi là bri pơ can yang pang mú , hiểu nôm na là rừng thiêng, rừng thuộc về ông bà.
Tập quán trước kia là làm nương rẫy theo chu kỳ khép kín, trồng 2 năm bỏ hóa 10 năm hay 15 năm rồi trồng lại.
Đất đai canh tác thuộc quyền sở hữu của làng, việc bố trí thêm đất canh tác cho những hộ bị thiếu đất là thuộc quyền của làng. Chủ làng vừa là chủ đất vừa là chủ rừng.
Địa hình của nơi người Cơ Ho Srê ở Tà Nung sinh sống có dạng lòng chảo, chung quanh là núi đồi, giữa là đất bằng, ruộng, suối... Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc làm rẫy theo mô hình: định canh luân khoảnh.  Bình quân một cặp vợ chồng canh tác từ 0,5-1 ha.  Một mẫu thu hoạch từ 800 đến 1.000 kg/ha (tương ứng gần 100 gùi).
Những nhóm làm rẫy thường sống du cư, khi đất canh tác bạc màu lại chuyển đến nơi khác.Tuy nhiên,ở một vài điểm cư trú tập trung của người Chil,do tình trạng đất rừng bị cằn cỗi dần hoặc trở lên hiếm vì nhiều làng phải sống chung một chỗ nên họ đã tạo ra một loại rẫy khác,canh tác cố định,làm đất bằng cuốc hoặc cày và có bón phân. Người ta tạo ra loại rẫy này bằng cách chọn 1 rẫy cũ, đào hết gốc cây còn lại từ lúc phát làm rẫy,sau đó đốt cây và làm sạch cỏ. Sau đó cũng  làm những công đoạn như làm một rẫy bình thường.
Người Cơ Ho làm rẫy được làm theo chu kỳ một năm, mỗi chu kỳ bắt đầu từ việc chọn rẫy, chọc lỗ tra hạt, cho đến khi thu hoạch. Nhóm Chil để chọc lỗ tra hạt còn dùng một dụng cụ riêng là:P’hal. P’hal có cán dài bằng gỗ, lưỡi dẹp bằng sắt khoảng 28cm và rộng khoảng 3-4cm, được dùng trong trường hợp một người vừa chọc lỗ vừa tra hạt. ở vùng người Srê, công cụ làm đất đặc trưng là chiếc cày (ngal) bằng gỗ, đế bằng , lưỡi gỗ(sau này là lưỡi sắt) và cái bừa răng gỗ(sơkam). .
Rẫy của người Cơ Ho là đa canh. Lúa là cây lương thực chính và là cây trồng chủ yếu nhưng  trên đoạn rẫy người ta cũng tận dụng đất và còn trồng lẫn cả ngô,sắn,bầu,bí,mướp,đậu…

Làm ruộng:
Ngoài nương rẫy , người Cơ ho còn làm ruộng nước.
Ruộng nước là loại đất trồng trọt được be bờ giữ nước , lại được tưới tiêu nhân tạo ,tùy theo địa hình ở vùng chân núi ,thung lũng hoặc đồng bằng bởi các hệ thống thủy lợi to nhỏ khác nhau.
Người Cơ Ho Srê tự gọi mình là cau Kơho Srê (người Cơ Ho làm ruộng nước,từ “Srê” trong tiếng Cơ Ho có nghĩa là “ruộng”) và người Srê thì sinh sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng nước. các truyền thuyết và chuyện kể của nhóm này cho thấy  họ làm ruộng là do học hỏi người Chăm.có hai nguyên nhân dẫn đến ruộng nước phát triển ở người Srê . thứ nhát là do sớm tiếp xúc với người Chăm , thứ hai , quan trọng hơn, do vùng cư trú có nhiều thung lũng , sẵn nước và tương đối bằng phẳng. Nói đến ruộng của người Cơ Ho Srê ta thấy họ có 2 loại ruộng. Sự phân biệt này dựa vào địa thế của ruộng đó là srê lơngơn nằm ở địa hình thấp, gần sông suối luôn luôn  có nước;  srê đang nằm ở vị trí cao hơn, có nước khi nào mưa hoặc khi nào có nước lớn tháo vào.phương pháp làm ruộng nước của người Srê chịu ảnh hưởng nhiều của phương pháp làm ruộng nước của người Chăm , thể hiện ở kỹ thuật sạ thẳng chứ không làm mạ cấy , ở việc dùng cày bừa đôi bằng sức kéo của trâu ,bò…
Cũng như với nương rẫy , do tín ngưỡng thờ thần lúa , sợ bẩn đất , thần lúa giận mà làm mất mùa , người Srê không dùng phân chuồng bón ruộng mặc dù vậy độ phì nhiêu của ruộng ít suy giảm do chất mùn trên cao xung quanh trôi xuống mỗi mùa mưa đến , cũng như do tập quán dùng phân xanh vùi xuống mặt ruộng sau lần làm ruộng thứ nhất. do được gieo thẳng, lúa mọc dày , người Srê chỉ nhổ cỏ qua loa bằng tay chứ không viện đến các công cụ làm cỏ . khác với lúa rẫy, trên lúa ruộng, người Srê cắt lúa bằng chiếc liềm , là nông cụ gốc Chăm , gióng con dao bẻ cong, chuôi gỗ.lúa được cắt xong , không lượm , được ôm lên bờ rải thành đám tròn rồi cho trâu dẫm xung quanh . thông thường mỗi đống lúa được sử dụng đàn trâu 4 hoặc 6 con . thời gian để trâu quần sạch một đám lúa từ 3-4 giờ đồng hồ. để giữ cho thóc sạch , người ta chọn chỗ đất cao, cứng ,bằng phẳng, khô ráo và lót phên nứa ở dưới rồi rải lúa lên , sau đó mới cho trâu quần. khi trâu quần xong, thóc được rũ khỏi rơm và cho vào những chiếc nong to, được làm sạch và phơi trên những tấm phên lớn đan từ lồ ô hay nứa.
Do đất thâm canh và định canh , khác với đất rẫy du canh , ruộng nước trở thành tài sản trao đổi có giá trị. Diện tích lớn nhỏ của một đám ruộng được tính bằng số gùi lúa giống gieo trên đám ruộng đó. Người Srê có câu sre đun spo pdam rpu (ruộng một gùi lúa giống bán năm trâu). Ruộng nước cũng là tài sản thừa kế quan trọng cho con cái khi lấy vợ , lấy chồng hoặc tách ra ở riêng.
Trong truyền thống , hai nhóm Lạt và Chil có lẽ là những nhóm ít làm hoặc không làm ruộng nước, nhất là nhóm Chil , một nhóm có thói quen chỉ du canh du cư trên núi cao.
Thời xa x­ưa, kỹ thuật canh tác chủ yếu là canh tác đao canh thủy nậu :là hình thức trồng lúa nước trên những mảnh đất luôn luôn ngập nước ở chân núi, trong các khe thung lũng hẹp, cũng như tại các vùng lầy trũng thuộc châu thổ đồng bằng còn đang định hình.
 chọn vùng sình lầy để trồng lúa, suốt lúa bằng tay. Dần dần, các dụng cụ được cải tiến: cày gỗ, cuốc, chuyển lên cày sắt, dùng sức kéo của trâu .Đặc biệt có nhóm Chil,Nộp là biết sử dụng trâu quần ruộng trũng cho đất tơi ra để gieo hạt, ngoài ra họ còn biết dùng sức trâu kéo có con lăn gạt san mặt ruộng và gặt lúa bằng liềm.

Đặc biệt có nhóm: Srê,Lạt đã biết làm ruộng nước,có trình độ kỹ thuật canh tác tương đối cao với các hệ thống mương ,phai dẫn nước tưới tiêu cho đồng ruộng hợp lý, hiệu quả. Ở những nhóm Cơ Ho làm ruộng nước họ không gieo mạ , hạt giống được gieo trực tiếp xuống chân ruộng , giống người Việt ở một số vùng Nam Bộ trước đây. Sau này một số nhóm đã thuần thục được rẫy , chuyển thành ruộng khô trồng lúa được nhiều năm.
Cuốc, cày , bừa… là công cụ lao động chủ yếu , có vị trí gần như là dộc tôn trong việc làm đất, vì người ta có tục coi con trâu là vật tế thần, không dùng để cày bừa. người ta còn nói rằng : “ sau ngày giải phóng , hiện tượng đồng bào đứng khóc thương con trâu (hay bò) hiền lành phải lao động cực khổ, vất vả là phổ biến”. do đó vận động làm thay đổi quan niệm đó không phải là dễ.
Những kinh nghiệm xem thời tiết qua kỳ sinh trưởng của động vật được truyền lại từ thời kỳ làm rẫy, cách xem sao, kỹ thuật làm đất (cày ải, phơi ải), làm thủy lợi   tưới tiêu thuận tiện, ngâm giống trước khi sạ, dùng phân bón,… đã chứng tỏ sự thành thục của họ trong việc trồng lúa nước ở một trình độ nhất định.
Chăn nuôi:
Hoạt động chăn nuôi đã có từ lâu ở người Cơ Ho.
Song song với ngành trồng trọt, người Cơ Ho còn chăn nuôi trâu, lợn, chó, dê, gà, vịt và sau này bò. Trâu là gia súc đứng đầu bảng trước đây,đóng vai trò quan trọng, trâu không chỉ để giết thịt trong những lễ hiến sinh, mà còn là sức kéo và vật định giá trong buôn bán, là tiêu chí phản ánh sự giàu có và uy thế của làng. Xưa kia do đất rộng , người thưa , rừng còn nhiều , nên đàn trâu ở người Cơ ho có điều kiện phát triển. theo như kể lại , mỗi gia đình thường có đàn trau vài dăm con trở lên. Những nhà giàu có đàn trâu tới vài chục con. Thường thì trong làng có bao nhiêu nhà dài sẽ có bấy nhiêu đàn trâu. Theo tập quán , trâu được nuôi thả rông. Mỗi làng có một bãi chăn thả trâu công cộng nằm ở ngoài làng gọi là srê h’pố . Bãi chăn thả này thường nằm ở chỗ thấp trũng nhiều cỏ và xung quanh là rừng rậm. Đường ra vào bãi chăn thả được làm cổng và rào rậu cẩn thận để trâu không ra được. Toàn bộ trâu trong làng được mang ra bãi chăn thả. ở đó , chúng tự kiếm ăn, tự sinh sản. cứ sau một số ngày nhất định , các gia đình mang muối cho trâu ăn để chúng không tự bỏ đi. Số lượng trâu trong mỗi đàn được theo dõi và nhớ rõ bằng cách đeo vào cổ trâu một loại mõ có dáng hình và kiểu dáng riêng.
 Sau trâu, lợn là vật nuôi quan trọng thứ hai.ợn được nuôi phổ biến ở mọi gia đình , theo phương thức thả rông quanh nhà.. nó cũng thường dùng làm vật tế cúng trong các lễ thức gia đình hay cộng đồng . ngoài ra, lợn còn được dùng vào mục đích trao đổi theo phương thức vật trao đổi vật.
 Trong khi đó bò được nuôi chỉ nhằm cung cấp thịt cho những bữa ăn và tiệc tùng thường nhật. Họ thả rông tất cả trong một thời gian dài, mãi sau này do nhu cầu bảo vệ và sử dụng phân bón, người Cơ Ho mới  biết xây cất chuồng trại.
Loài gia cầm duy nhất được nuôi ở người Cơ ho là gà . Gà được nuôi ở mọi gia đình . số lượng từ vài con đến vài chục con. Ban ngày gà tự kiếm ăn trong làng, tối chúng ngủ dưới gầm sàn hay trên các cành cây. Gà được nuôi để cúng tế, lấy trứng hay làm quà biếu mà ít khi được đem bán hay trao đổi.
Ngoài ra họ cũng nuôi chó. Số lượng chó lên đến dăm bảy con /nhà. Theo tập quán người cơ ho không ăn thịt chó ,không phải vì kiêng kỵ mà vì họ coi chó là bạn thân thiết của người, một quan niệm phổ biên ở nhiều cư dân nói ngôn ngữ Môn-Khơme dọc Trường Sơn Tây Nguyên.
Tóm lại , trong truyền thống , chăn nuôi ở người cơ ho đã được chú trọng. vật nuôi đã khá phong phú bao gồm trâu, lợn,dê,gà,chó. Không thấy ở người cơ ho tập quán chăn nuôi ngựa và voi như ở người Mnông và Êđê cận cư. Phương thức chăn nuôi chủ yếu vẫn là thả rông, nửa chăm sóc. Mục đích chăn nuôi chủ yếu nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh như cúng lễ, ma chay, cưới xin mà ít phục vụ nhu cầu cải thiện bữa ăn , cũng như chưa trở thành sản phẩm mang tính hàng hóa.
    
Một số nghề thủ công:
Tất cả các nhóm Cơ Ho đều có nghề thủ công cung cấp những sản phẩm cần thiết cho nhu cầu của dân làng, sản phẩm dư thừa được đưa ra trao đổi ở các chợ, thị trấn trong vùng. Đáng chú ý nhất là các nghề dệt vải thổ cẩm, đan lát đồ mây, tre, cói; rèn nông cụ và vũ khí truyền thống là nghề thủ công của người Cơ Ho. Một số nơi còn có nghề làm đồ gốm, dùng trong gia đình và trao đổi.

Nghề rèn :
Nghề này có hầu hết ở các làng và do người đàn ông đảm nhiệm.
Theo truyền thuyết, người Cơ Ho Lạch giải thích, người Cơ Ho Chil là thợ rèn giỏi, bởi vì bà Ka Tông chỉ truyền cho họ một nghề đó. Nhưng đó chỉ là sự giải thích sau này của các nghệ nhân dân gian Cơ Ho Lạch, chứ thực ra, chúng ta vẫn còn nghe được những truyền thuyết về lửa sắt được lấy ra từ Brah Ting (làng dưới đất) và nghề rèn của các nhóm cư dân Cơ Ho. Thợ rèn không mang tính chuyên nghiệp. Người ta bắt đầu công việc vào lúc gần phát rẫy để sửa sang dụng cụ. Thợ rèn gồm có 3 người. Thợ cả đập, một thợ phụ kéo bễ và một mài công cụ. Nguyên liệu gồm  sắt. Trước kia họ thường trao đổi với người Raglai, Chu Ru để đổi lấy sắt, sau này lấy từ phế liệu cơ khí. Sản phẩm tự tạo gồm có xà gạc, dao nhỏ, rìu...
Họ tiến hành như sau: nguyên liệu được đem ghè, cắt đập nhỏ, tạo dáng công cụ rồi vùi vào trong lò  than được làm đỏ bởi 2 ống do một người làm. Sản phẩm chưa hình thành được nung đỏ và đập, cắt cho đến khi hoàn thành công cụ, nhúng vào nước cho cứng lại và mài sắc. Họ cũng có những sự kiêng như:không cho đàn bà goá, phụ nữ có thai lần đầu đi ngang qua nơi làm việc vì sợ hư hại sản phẩm giữa chừng. thù lao cho người thợ rèn thường được trả bằng hiện vật như:rượu ,gà hay cũng có khi được đổi bằng công lao đọng trên nương rẫy hay ở nhà. Nhìn chung người thợ rèn được dân làng kính trọng và quý mến do công việc được coi là tốt đẹp mà ông ta đã làm cho mọi người.

Đan lát:
Nghề đan lát tre mây cũng do người đàn ông đảm nhận. nó là tiêu chí bắt buộc của thanh niên khi đến tuổi trưởng thành,... Công cụ trau vót gồm có dao nhỏ, xà gạc. Sản phẩm là các vật dụng , từ vách nhà, kho  lúa, kho ngô đến các đồ  dùng, các loại bẫy chim, cá, thú. Nghề đan lát trở thành chuẩn mực đánh giá  người con trai cũng như nghề dệt vải để đánh giá người con gái Thái vậy.
Đan lát ở người Cơ Ho Lạch được phân công khá rõ ràng: đàn ông đan gùi, nong, nia, đồ đựng thóc gạo, phụ nữ đan cói. Các sản phẩm cói như chiếu (bêl), mũ (đ­uôn), túi đựng thức ăn (plơ) được trao đổi và buôn bán khắp nơi. Người phụ nữ Cơ Ho Lạch được truyền dạy nghề từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Xá pớ (gùi đi nương) Nơm bắt mối
Nghề dệt vải:
Là công việc của phụ nữ.
Về cơ bản , nghề dệt vải dừng ở mức độ không chuyên và chỉ làm trong thời gian rảnh rỗi. Đấy cũng là một nghề mang tính phân công lao động theo giới tính và là điều kiện bắt buộc khi các cô gái chuẩn bị thành lập  gia đình. Nguyên liệu là bông kéo sợi. Cây bông được trồng, thu hái và chế biến. Nơi trồng là đất vườn hay ven suối.
Công đoạn :Xử lý bông:
 Người ta thu hái bông, đem về phơi nắng cho cánh bung ra hết. Để bông tơi, sạch, người ta tách hột, tiếp đến dùng đũa xe bông thành từng lọn nhỏ. Lọn bông kéo ra một đầu nối vào trục xa quay để kéo sợi (lambong). Nó giống như công cụ kéo sợi của người Việt. Kéo xong sợi, người ta đem bỏ vào ngâm trong nồi có nếp đã nấu nhừ, mục đích làm cho sợi dệt được chắc, không đứt giữa chừng. Sợi ngâm xong được lấy ra phơi khô, sau đó được quấn vào cây quay để quấn lại thành cuộn chỉ lớn.

Thu hoạch bông.
Công đoạn :Nhuộm sợi:
 Đa số những màu sắc để nhuộm vải đều được người Cơ Ho sáng tạo từ các chất liệu tự nhiên như: Lấy lá cây tơrung đem giã nát để được màu xanh. Ngâm trong ché khoảng một tuần, sau đó trộn nát để thêm hai ngày rồi lấy xát . Nước lá đông lại thành cục nhỏ, keo khô. Lúc nhuộm lấy chất keo đó bỏ vào chén, đổ nước vào phải hoà tan và ngâm sợi trong hai ngày. Màu xanh dương ngâm với lá nước chát (chàm be); màu đỏ lấy loại cỏ họ dền, phơi khô, nấu, lọc rồi nhúng sợi vào. Màu vàng lấy củ nghệ dại không giống với nghệ thường ăn, đem giã nát ngâm chung với sợi.
Công đoạn : dệt:

Khung dệt của người Cơ Ho cũng có nhiều nét giống như người Mạ: hai ngón chân cái bám vào thanh giữ đầu khung, hai chân duỗi thẳng song song cuối khung dệt cố định được là nhờ đường dây nối vòng qua lưng.  Hoa văn được dệt theo ý thích của mỗi người: có nhiều hoa văn mô tả động, thực vật hay sản phẩm sáng tạo của con người. Có những loại hoa văn tiêu biểu hơn cả như:Hoa văn chấm trắng tượng trưng hình con sâu, chấm xanh tượng trưng quả dưa hấu hay tổng hợp nhiều màu vàng, xanh, đỏ thẫm, trắng để tạo nên hoa văn tượng trưng hình con công. Hoa văn có nhiều loại như mắt chim (mat sêm), con cào cào (srah), hầm chông (srông), cán xà gạc (ngkơr wiêh), bướm (tơplơp)…

Trao đổi,buôn bán:
Người Cơ Ho Lạch tuy là cư dân nông nghiệp quen sống theo kiểu tự cung tự cấp là chính nhưng họ cũng  sớm chấp nhận một nghề phụ khá mới mẻ như: buôn bán, và coi đó là một nguồn thu nhập quan trọng, bù vào khoản thiếu hụt lớn do kinh tế sản xuất và chiếm đoạt không đáp ứng được. Vì có quan hệ đặc biệt với cư dân buôn bán khác như­ Chăm, Chu Ru, người Cơ Ho Lạch  được quyền "lư­u thông phân phối" ở vùng cao nguyên Lang Biang, nhất là khi vương quốc Chămpa bị tan rã. Vì nhu cầu mua muối và sắt của các dân cư trong vùng đòi hỏi cấp bách, việc buôn bán của người Cơ Ho Lạch kéo dài về phía đông từ Đơn Dư­ơng xuống Phan Rang, Nha Trang và mở rộng sang phía tây bắc, tận Campuchia. Mùa khô, khi công việc đồng áng rảnh rỗi, họ tổ chức thành từng nhóm hai ba chục người, có khi cả gia đình với chiếc gùi trên vai. Một chuyến buôn có thể kéo dài từ 15 – 20 ngày, xuống biển họ mang những sản phẩm của cao nguyên: gạc nai, ngà voi, dây mây, nghệ, hạt ngo (thông), có khi lùa thêm trâu, ngựa để chuyên chở về với muối, sắt và đồ trang sức thích mắt. Với muối, sắt, họ có thể đổi với bà con cư dân lân cận gạo, vải, dụng cụ sản xuất và đổi với người Khmer chiêng ché.
Người Cơ Ho Lạch luôn tâm niệm khi đi buôn rằng: "làm đất phải cuốc hết ngày, đi buôn phải giao du khắp chốn" và họ thu được nhiều “túi khôn” của thiên hạ. Chính vì vậy, người Cơ Ho Lạch đã có một thời được các cư dân láng giềng khen tặng về sự thông minh.
Người Cơ Ho Chil và người Cơ Ho Srê dùng thóc lúa, sản phẩm chăn, dệt, chăn nuôi để trao đổi lấy sắt, muối, áo quần. Người Cơ Ho ChiL có khi thông qua người Lạch để trao đổi, nhưng đôi khi họ cũng trao đổi bằng những chuyến buôn xa.

Khai thác các nguồn lợi tự nhiên:
Săn bắt:
Những tháng đầu mùa mưa,  là thời gian thuận lợi nhất trong việc tìm thú rừng, bởi vì đây là thời gian đốt rẫy, thú đi ăn, đi tìm những lộc non mới nhú. Vũ khí đi săn gồm có: ná, lao phóng (hiện tại họ dùng súng, đèn pin). Người ta săn tất cả các con thú, chỉ kiêng không ăn con cù lần (đogle) và rắn hổ mang bành. Người Cơ Ho Srê thường dùng các loại bẫy sau:
+ Bẫy hầm (tàm tơrlong) người ta đào những hố thật sâu để dụ những con thú “hấp tấp” không ý thức được và rơi vào.
+ Bẫy gài cây lớn (kơtit),khi  thú  rừng đi và chẳng may đụng vướng cây, cây đổ đập chết thú.
+ Bẫy gài kiểu thòng lọng (dă): khi  thú vướng bẫy, lập tức cần bẫy bật lên, chân thú bị thắt nút và thú bị treo lơ lửng trên không.
Săn bắt tập thể là hoạt động khá nhộn nhịp và phong phú. Chỉ huy thường là những người thợ săn giỏi, chủ của bầy chó săn. Tốp đi săn chia thành hai nhóm:
. Nhóm săn đuổi cùng bầy chó dồn con thú chạy theo những tuyến rừng dự định. Trong tay cầm những lao nhọn, họ la hét, huýt chó, tiếng chó sủa vang động cả một góc rừng.
.  Nhóm thứ hai gồm những thợ săn dũng cảm và kinh nghiệm đón sẵn ở những nơi dự kiến thú sẽ sẽ chạy qua để tiêu diệt con thú. Cũng có thể họ dò tìm được đ­ường đi ăn của con thú, đào hầm sâu cắm chông (rộng 4 x 5m,  sâu 1,5-2m) dồn đuổi thú sập hầm để bắt.
 Những hình thức này dùng để săn các thú lớn như trâu rừng, gấu, hổ, nai,... Kết quả được chia công bằng cho mọi thành viên tham gia: những người có công như người chỉ huy, chủ bầy chó, người đâm thú đầu tiên bao giờ cũng được phần hơn. Riêng đầu thú dành cho người chủ chốt như­ biểu hiện kính trọng, bởi vì nó lại được dùng để chiêu đãi mọi người sau một chuyến đi săn thành công. Người  giết thú  lấy hàm dưới xâu lại thành chuỗi treo sát vách nơi cửa ra vào, khi được 100 cái hàm, người đi săn giết heo để cúng mừng (dul rơhiêng). Đây là vinh hạnh lớn nhất của người đi săn về  thành tích của họ. Sản phẩm đi săn phải cúng trước, sau đó mới chia.

Đánh bắt cá :
Đánh bắt cá được tiến hành ở các dòng suối vùng đầm nước (tơnau) bằng nhiều phương tiện khác nhau: đó (pàm), gậy chọc (chi chol), rổ xúc (đêr chŏ ka), vó (yŭ) và sau này có thêm lư­ới. Công việc này thường xuyên hơn săn bắt thú, phụ nữ và trẻ em đều tham gia được. Ngoài phương cách trên, người ta suốt cá bằng một thứ cây độc hay phương pháp bít đầu nguồn. Câu cá thường bằng một sợi dây không có lưỡi câu, mồi thường bắt con sâu nước - một loại thức thức ăn tôm cá rất thích.
Cá bắt về người dân thường chế biến các món như: ăn tươi, hay nướng, xào khô, riêng cá không được nấu với nấm vì sợ sét đánh.

Hái lượm :
Việc hái l­ượm này thường được "chuyên môn hóa" cho phụ nữ và trẻ em. Thức ăn rừng Lang Biang rất phong phú về rau (mơ biap, nsai mpàr, mbêr, chuối rừng, đọt mây, cà đắng và nhiều loại nấm...), cộng với rau v­ườn nên bữa ăn nào của người Cơ Ho cũng có món rau làm thức ăn chính. Họ chỉ kiêng không dám hái  trái xoài rừng sợ bị sét đánh và không ăn trái krit. Các sản phẩm hái lượm được nếu ít thì nấu ăn hết, còn nhiều thì họ phơi khô để dành.
Nghề khai thác rừng trước hết là gỗ, tre để xây dựng nhà ở, chuồng trại, đan lát và chế tác các dụng cụ gia dụng. Nhiều loại lâm sản như mây, ngo, một số cây thuốc được khai thác thành sản phẩm trao đổi buôn bán. Y học dân tộc của người Cơ Ho từ thời xa xư­a cũng khá phong phú, đang bị mai một dần.
Ngoài ra còn có một số nghề phụ khác như: nghề làm gốm phát triển mạnh ở nhóm Srê… Đàn ông Cơ Ho giỏi săn bắn thú rừng , nhưng hơn 10 năm qua vì bảo vệ rừng , động vật người Cơ Ho không bắn thú nữa.
                              
 VĂN HOÁ VẬT CHẤT:
 Nhà cửa:
          Nhà ở cổ truyền của người Cơ Ho là nhà sàn dài nhưng hiện nay nhà đất đang ngày càng phổ biến. Vật liệu xây dựng nhà là tranh, tre, gỗ và dây rừng…
          Nhà ở của người Cơ Ho có hai loại hình phổ biến là nhà sàn và nhà đất, với hai dạng khác nhau là nhà dài của gia đình lớn và nhà ngắn của gia đình nhỏ.
         - Nhà sàn dài của gia đình lớn: thường chỉ có hai hoặc ba gia đình nhỏ cùng chung sống. Kết cấu của bộ khung nhà được làm theo kiểu vì hai cột hoặc ba cột nhưng không có kèo. Hai mái đầu hồi khum tròn giống như mái nhà của nguời Thái Đen, chỉ khác là không có “khau cút”.
          Ngôi nhà được giới thiệu dưới đây là ở xã Đaploa, huyện Đahuoai tỉnh Lâm Đồng. Nhà này chỉ có hai gia đình nhỏ là gia đình của người mẹ và gia đình của người con gái sống với nhau. Nhà có ba cửa ra vào, cửa chính ở mặt trước nhà, hai cửa phụ ở hai đầu hồi của hai gia đình nhỏ. Phần mái trên của các cửa đều được làm vồng lên để đi lại dễ dàng hơn.
          Nhà có chín gian: ba gian về phía đầu hồi bên phải là của gia đình người mẹ (NM). Hai gian có gác xép (GX). Gian thứ ba đặt bếp (BM). Giáp vách tiền của cả ba gian này có một cái sạp nhỏ để nước (SN), phía dưới để củi (CĐ). Ba gian giữa dùng để tiếp khách của gia đình (GK). Giáp vách hậu là một dãy ché, ú đựng rượu cần (RC), trên vách của gian chính giữa có bàn thờ chung của hai gia đình (TN). Bàn thờ chỉ là một tấm ván nhỏ treo vào vách, xung quanh cắm một số lá cây, những chùm bùi nhùi vót từ ống tre ra. Ở khoảng giữa hai cột của vì cột thứ năm (tính từ trái sang phải) có một cột gọi là Dorongtơtộ buộc những chùm lá bị rơi khi lợp nhà. Cột này thường được dùng để buộc các ché rượu cần khi tiếp khách hoặc trong nhà có lễ thờ cúng thần linh (CBC). Ba gian bên trái dành cho gia đình người con gái (NC) cũng được bố trí giống như ba gian thuộc hồi bên phải.

         - Nhà đất dài của gia đình lớn:
           Nhà đất dài có quy mô nhỏ hơn nhà sàn dài, nhưng vẫn có hai gia đình nhỏ cùng sinh sống. Bộ khung nhà vẫn làm theo kiểu vì ba cột, hình thù của nó giống lối kết cấu cổ truyền.
         - Nhà sàn ngắn của gia đình nhỏ: Kết cấu bộ khung vẫn theo kiểu cổ truyền, vì hai cột nhưng có một số cột có hình thù đặc biệt hầu như ít gặp ở nhà các dân tộc khác. Vì thứ hai chỉ có một cột giữa. Hai cột ở vì thứ ba có hình thù khác với các cột còn lại.
         -Nhà đất ngắn của gia đình nhỏ:
          Có nhiều dạng nhà khác nhau từ kết cấu bộ khung, đến cách tổ chức mặt bằng sinh hoạt đều xa dần với cái gốc cổ truyền. Trong nhà đã được chia thành các gian, phòng rõ rệt, không còn kho thóc ở giữa nhà. Tuy nhiên người ta vẫn còn làm sạp để nằm, bếp vẫn gần nơi dành cho chủ nhà…

          Từ hai dạng nhà dài và nhà ngắn đơn độc dần dần người ta đã tiến tới các tổ hợp hai nhà: nhà ở  và  nhà bếp. Có tất cả 4 dạng:
              Nhà ở là nhà sàn-nhà bếp là nhà đất
              Nhà ở là nhà đất- nhà bếp là nhà sàn
              Nhà ở và nhà bếp đều là nhà đất
              Nhà ở và nhà bếp đều là nhà sàn.

          Mọi sinh hoạt của gia đình như ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách đều được diễn ra xung quanh bếp lửa.

 Trang phục
           Dệt là điều kiện bắt buộc đối với các cô gái chuẩn bị về nhà chồng. Vì khi về nhà chồng thì các cô gái phai mang theo của hồi môn là những sản phẩm mà mình đã dệt được như chăn, gối, trang phục tặng bố mẹ chồng... Nghề dệt vải rất phổ biến ở đồng bào dân tộc Cơ Ho.
           Trang phục truyền thống của người phụ nữ Cơ Ho gồm: áo, váy, đồ trang sức, và tấm choàng.
       - Áo được dệt bằng vải sợi bông màu trắng, phía  trên có cài một số hoa văn. Áo dài khoảng 80cm, rộng 40cm, viền cổ tròn, áo hình chữ nhật trên dưới bằng nhau, vạt trước ngắn hơn vạt sau. Hoa văn trang trí áo chủ yếu là hình quả trám, ở giữa là hình cối xay gạo.
        - Váy là loại váy cuốn dài khoảng 150cm, rộng 90cm, hình chữ nhật, màu xanh chàm, hai bên mép dệt hoa văn với các màu trắng, vàng, xanh, hai đầu váy thường để tua. Hoa văn trang trí chủ yếu là các đường kẻ song song, đường kẻ ngang, chấm trắng, lá nón, hoa văn trên ống đựng tên, ché rượu cần, gốc cây tre làm chà gạc... Toàn bộ hoa văn trên váy của nữ giới là hoa văn dệt chứ không phải hoa văn thêu.

          Khi mặc váy họ thường bắt đầu quấn từ phía hông trái rồi quấn một vòn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét