Tại Campuchia, theo SIL International, năm
2002 có khoảng 20.000 người M’Nông, chủ yếu sinh sống trong tỉnh Mondulkiri,
giáp biên giới với các tỉnh Đắk Nông và Đắk Lắk của Việt Nam. Tại đây họ còn được
gọi là Phong, Phnong, Bunong, Budong, Phanong.
Sơn nữ M'Nông trong một cuộc thi Hoa Hậu
Dân Tộc.Sơn nữ M’Nông trong một cuộc thi Hoa Hậu Dân Tộc.
Dân tộc M’nông thuộc chủng Indonesian.
Ngôn ngữ M’nông thuộc nhóm Môn-Khmer miền núi phía Nam. Trong vốn từ vựng
M’nông bộc lộ rõ sự ảnh hưởng của tiếng Chăm, qua ngôn ngữ Ê Đê và Giarai, là
những ngôn ngữ thuộc nhóm Malay-Polynesia, bên cạnh sự ảnh hưởng sâu đậm hơn của
nhóm Môn-Khmer…
Trong quá trình lịch sử phát triển tộc người
của mình, do địa bàn cư trú phân tán trên một vùng rừng núi hiểm trở, việc giao
lưu giữa các vùng M’nông rất khó khăn, hạn chế, đã phân chia cư dân M’nông ra rất
nhiều nhóm địa phương. Nhưng các nhóm này vẫn tự nhận một tên gọi chung là
M’nông.
Những nhóm địa phương của người M’nông có
thể kể đến như:
-M’nông Gar, ở Tây Bắc Lâm Đồng và vùng hồ
Lăk thuộc tỉnh Đăk Lăk
-M’nông Chil, cư trú trên địa bàn huyện Lạc
Dương, Đức Trọng, Lâm Hà và huyện Lắk thuộc tỉnh Đăk Lăk…
-M’nông Nông, ở Đăk Nông, Đăk Min tỉnh Đăk
Lăk.
-M’nông Préh, ở Đăk Nông, Đăk Min, Krông
Nô, Lắk, tỉnh ĐăkLăk
-M’nông Kuênh, ở huyện Krông Pách, tỉnh
Đăk Lăk.
-M’nông Prâng, ở Đăk Nông, dăk Min, Lắk và
EA Súp, tỉnh ĐăkLăk
-M’nông R’Lâm, ở huyện Lắk, tỉnh Đăk Lăk.
-M’nông Bu đâng, ở Bản Đôn, Đăk Lăk.
-M’nông Bu Nor, ở các huyện Đăk Nông, Đăk
Min, tỉnh Đăk Lăk.
-M’nông Din Bri, ở vùng tả ngạn sông EA
Krông, tỉnh Đăk Lăk
-M’nông Đíp, ở tỉnh Bình Phước và Đăk Lăk.
-M’nông Bíat, ở tỉnh Bình Phước và bên kia
biên giới Campuchia-Việt Nam.
-M’nông Bu Dêh, ở vùng giáp ranh giữa tỉnh
Bình Phước và tỉnh Dăk Lăk.
-M’nông Si Tô, ở Đăk Song, tỉnh Đắk Nông.
-M’nông káh, ở các huyện Lắk, Đăk Nông,
M’Drăk, tỉnh Đăk Lăk.
-M’nông Phê Dâm, ở vùng Quảng Tín, huyện
Đăk Nông, tỉnh Đăk Lăk
Ngoài ra, còn có một số nhóm địa phương
khác của người M’nông như: M’nông Rơ Đe, M’nông R’ông, M’nông K’Ziêng… cư trú ở
Campuchia.
Mọi sinh hoạt, văn hóa, lễ hội của người
M’nông Gar đều được Georges Codominas ghi chép và chụp lại. Mọi sinh hoạt, văn
hóa, lễ hội của người M’nông Gar đều được Georges Codominas ghi chép và chụp lại.
Do có nhiều nhóm địa phương như vậy, nên cộng
đồng dân tộc M’nông có nhiều phương ngữ, nhưng chủ yếu là phương ngữ M’nông miền
Đông và phương ngữ M’nông miền Tây; Sự khác nhau giữa các phương ngữ đó là
không đáng kể; Giữa các phương ngữ đó đều dễ dàng nghe và hiểu tiếng nói của
nhau.
Người M’Nông làm rẫy là chính, ruộng nước
chỉ có ở vùng ven hồ, đầm, sông. Những con vật nuôi thông thường ở trong các
gia đình là trâu, chó, dê, lợn, gà và một số nhà nuôi cả voi. Người M’Nông ở Bản
Đôn có nghề săn voi và thuần dưỡng voi nổi tiếng. Nghề thủ công của người
M’Nông có dệt vải sợi bông do phụ nữ đảm nhiệm và đan lát các dụng cụ như gùi,
giỏ, mùng… do đàn ông làm.
Mỗi bản làng thường có vài chục nóc nhà,
ông trưởng làng đóng vai trò to lớn trong dân làng. Mọi người sống theo kinh
nghiệm và tập tục truyền lại từ nhiều đời. Nam nữ, trẻ, già ai cũng thích rượu
cần và thuốc lá cuốn.
Nhà của người M’nông Gar, thường có mái
buông chùm gần sát mặt đất, có kiến trúc mái cửa vòm như cửa tò vò, trông rất đẹp
mắt. Thông thường, mỗi ngôi nhà của người M’nông Gar, M’nông Chil ở địa phương
là nơi cư trú của nhiều hộ gia đình có quan hệ huyết thống về phía mẹ.
Một buôn làng của người M'Nông (buôn Jun)
bên hồ Lắk.Một buôn làng của người M’Nông (buôn Jun) bên hồ Lắk.
Xã hội truyền thống của người M’nông còn bảo
lưu những dấu ấn khá sâu đậm của chế độ mẫu hệ. Người phụ nữ đóng vai trò chủ động
trong hôn nhân. Sau lễ cưới, người con trai thường ở bên nhà vợ. Con cái sinh
ra đều theo dòng họ mẹ và quyền thừa kế tài sản đều thuộc về những người con
gái trong gia đình.
Trước đây, người M’nông theo tín ngưỡng đa
thần, đặc biệt là các vị thần nông nghiệp và các vị chư thần giống như các vị
thần của người Cơ Ho, người Mạ. Thiên Chúa Giáo và nhất là đạo Tin Lành đã thâm
nhập và phát triển vào vùng người M’nông.
Theo nếp cũ trong luật tục hôn nhân, đến
tuổi trưởng thành, người M’Nông phải cà răng mới được yêu đương lấy vợ lấy chồng.
Phong tục cưới xin gồm 3 bước chính là dạm hỏi, lễ đính hôn, lễ cưới. Nhưng
cũng có nơi đôi vợ chồng trẻ ở phía nào là tùy thỏa thuận giữa hai gia đình.
Người M’Nông thích nhiều con, nhất là con gái. Sinh con sau một năm mới đặt tên
chính thức.
Trong luật tục ma chay, người M’Nông có tập
quán ca hát, gõ chiêng trống bên áo quan suốt ngày đêm. Sau khi hạ huyệt, họ
dùng cây, que và lá cây trải kín miệng hố rồi mới lấp đất lên trên. Qua 7 ngày
hoặc một tháng, gia chủ làm lễ đoạn tang.
Vốn văn hóa nghệ thuật được lưu truyền qua
các thế hệ là chủ yếu là do truyền khẩu. Đặc biệt là tập quán kể chuyện sử thi
của người M’Nông tiềm ẩn nhiều giá trị văn hoá quý báu. Kho tàng truyện cổ
M’Nông bao gồm những thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, thế sự… phản ánh quá
khứ về nhận thức của con người về vũ trụ và nhân sinh, đồng thời để lại nhiều dấu
vết hoạt động của con người trong xã hội xưa đậm đà bản sắc.
Dân ca M’Nông giàu chất trữ tình và rất dễ
hát, âm điệu thường lặp đi lặp lại nhiều lần trong một bài, câu trước so với
câu sau đều có nhịp tăng giảm để tạo nên những âm thanh trầm bổng. Kho tàng dân
ca và nhạc cụ của người M’Nông đa dạng với các bộ cồng chiêng, kèn bầu, kèn sừng
trâu, kèn môi, đàn độc huyền, đặc biệt đàn đá mang âm hưởng của núi rừng Tây
Nguyên vẫn được lưu truyền đến ngày nay.
Văn học truyền khẩu của người M’Nông ngoài
dân ca và truyện cổ còn có ca dao và tù ngữ cũng không kém phần phong phú. Nhìn
chung văn học nghệ thuật dân gian M’Nông đã làm tăng thêm hương sắc cho nền văn
hóa dân gian Việt Nam.
Các Sử thi của tộc M’Nông:
1. Cướp Chiêng Cổ Bon Tiăng
2. Lêng Nghịch Đá Thần Của Yang
3. Bắt Con Lươn Ở Suối Dak Huch
4. Con Đĩa Nuốt Bon Tiăng
5. Cướp Chăn Lêng Của Jrêng, Lênh Con Ốt
6. Kră, Nông Cướp Binh, Kông Con Lông
7. Lấy Hoa Bạc, Hoa Đồng
8. Lêng, Kong Mbong Lấy Ché Voi Trắng
9. Thuốc Cá Ở Hồ Bầu Trời, Mặt Trăng
10. Yơng, Yang Lấy Ống Bạc Tượng Người
11. Bing Con Măch Xin Làm Vợ Yang
12. Con Hổ Cắn Mẹ Rong
13. Đẻ Lêng
14. Kể Gia Phả Sử Thi – Ot Ndrong
15. Lấy Ché Con Ó Của Tiăng
16. Lùa Cây Bạc, Cây Đồng
17. Rôch, Rông Bắt Hồn Lêng
18. Tiăng Cướp Djăn, Dje
19. Tiăng Lấy Gươm Tự Chém
20. Tiăng Lấy Lại Ché Rlung Chim Phượng
Hoàng Ở Bom Kla
21. Ting, Rung Chết
22. Trâu Bon Tiăng Chạy Đến Bon Krơn, Lơng
Con Jiăng
23. Yang Bán Bing Con Lông
24. Cướp Bung Con Klêt
25. Sung, Trang Con Mung Thăm Tiăng
26. Tiăng Giành Lại Bụi Tre Lồ Ô
Dưới đây mình có các bài:
– Đàn đá, nhạc cụ độc đáo của người M’Nông
– Kèn Rlet – Nhạc cụ độc đáo của người
M’nông
– Âm nhạc dân gian trong nghi lễ của người
M’nông
– Lễ sum họp của người M’nông, Đắk Nông
– Lễ cúng mưa đầu mùa của đồng bào M’nông,
Đắk Nông
– Nghi lễ cắm nêu cúng lúa của người
M’nông, Đắk Nông
– Lễ cúng nhập hồn lúa của người M’nông
– Độc đáo Lễ mừng thọ của người M’nông, Đắk
Nông
– Độc đáo nghi lễ cúng sức khỏe cho voi của
người M’nông, Đắk Lắk
– Độc đáo lễ cưới của người M’nông Gar ở Đắk
Lắk
– Trò chơi dân gian độc đáo trong các lễ hội
truyền thống của người M’nông, Đắk Nông
– Trang phục truyền thống của người M’nông
– Nhà dài M’nông
Đàn đá M'Nông.Đàn đá M’Nông.
Đàn đá, nhạc cụ độc đáo của người M’Nông
Từ hàng ngàn năm trước, trên vùng đất Tây
nguyên đã xuất hiện và lưu truyền một loại nhạc cụ vô cùng độc đáo, đó là loại
nhạc cụ thuộc hệ gõ thường gọi là đàn đá, người M’Nông gọi là Goong lǔ (tức là
cồng đá). Đàn đá như biểu hiện cho tiếng lòng của người Tây Nguyên, mỗi âm
thanh của nó được đánh lên, người nghe như cảm được người Tây Nguyên đang gửi
lòng mình vào đá . Tiếng đàn như âm vang trầm hùng của núi rừng, tiếng suối chảy.
Tiếng đàn đá còn thay cho lời kể, niềm an ủi, lúc vui, lúc buồn trong cuộc sống
của người dân bản địa.
Bộ đàn đá đầu tiên được phát hiện tại nơi
cư trú của đồng bào M’Nông là ở huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắc Nông vào năm 1993. Đồng
bào M’Nông ở đây kể rằng: khi đánh cá ở suối Đắk Kar một người dân đã tìm được
3 thanh đá gõ vào nghe âm thanh rất thích. Sau đó những thanh đá đó được các
nhà nghiên cứu xác định là của bộ đàn đá cổ có từ thời đồ đá, cách đây gần
3.000 năm. Người tiền sử đã dùng các loại đá có sẵn ngay trên mảnh đất mình
sinh sống để tạo ra đàn đá. Những phiến đá thô, tưởng như vô tri, vô giác đã được
người xưa chế tác ra nhạc cụ và thật kỳ diệu từ những thanh đá ấy đã cất lên âm
hưởng như tiếng vọng của đại ngàn Tây Nguyên vang vọng tới ngày nay. Ông Nguyên
Tâm, nhà nghiên cứu về đàn đá ở Tây Nguyên, cho biết: “ Những tảng đá mang âm
thanh rất lạ, mà nguyên nhân nó ở dưới nước lâu ngày, bị nước bòn mòn phía
ngoài, chỉ còn phần xương của nó, nên độ cứng của nó rất lớn. Khi đánh nó phát
âm thanh như tiếng chuông, đó chính là nguyên liệu làm đàn đá…Khi đánh lên nó
như hoà điệu với núi rừng, như đưa con người trở về với đời sống nguyên sơ, đưa
chúng ta trở về với thiên nhiên, rừng núi”
Nhờ nhạy cảm, giỏi thẩm âm và tìm tòi sáng
tạo, người M’Nông đã làm ra những bộ đàn đá nguyên sơ thể hiện sự giao hòa,
chinh phục của con người đối với thiên nhiên. Những phiến đá dùng để làm đàn đá
gọi là đá nham, đá sừng. Cách thức ghè đẽo khá tinh xảo và trau chuốt; kích thước
dài, ngắn, dày, mỏng khác nhau để có được các thang âm trầm bổng hay thánh thót
khi gõ. Thanh đá dài, to, dày thường có âm trầm và trong. Ngược lại thanh đá ngắn,
nhỏ, mỏng thì tiếng thanh.
Sơn nam M'Nông biểu diễn đàn đá.Sơn nam M’Nông biểu
diễn đàn đá.
Người M’nông đã làm những bộ đàn đá gọi là
Goong lǔ (Cồng đá), là nhạc khí tự thân vang, gồm một bộ sáu thanh đá có kích
thước lớn bé và hình dáng khác nhau. Thanh dài nhất khoảng 30 cm, thanh ngắn nhất
chừng 10 cm, nặng khoảng 5-7 kg. Mỗi thanh có âm sắc tương ứng với một chiếc
chiêng trong bộ chiêng Cung Bor sáu chiếc. Đàn đá cổ xưa đã được đồng bào
M’Nông dùng để đuổi chim thú, bảo vệ mùa màng và sau này phục vụ các sinh hoạt
văn hóa cộng đồng. Ngày thường, người dân thường cất chúng trong gùi lớn, đến lễ
tết mới mang ra trưng bày, biểu diễn. Vì ý nghĩa linh thiêng, đây là nhạc cụ
duy nhất được trình tấu trong những ngày lẽ hội như: Lễ mừng lúa mới, mừng được
mùa, lễ hội ăn trâu, uống rượu cần. Người M’Nông xưa quan niệm thanh âm của đàn
đá như một phương tiện để nối liền giữa con người với trời đất thần linh, nối
quá khứ với hiện tại. Ông Điểu Nhôm, nghệ nhân đàn đá người M’Nông ở xã Quảng
Tín, huyện Rlấp, tỉnh Đắc Nông, tâm sự: “ Mình đánh cái cồng chiêng này mình
như nhớ lại ông già bà già mình lúc con sống. Tiếng đá này không thể bỏ được vì
là truyền thống dân tộc mình từ xưa đến bây giờ. Con cháu sau này cũng không thể
để mất đi truyền thống. Mình đánh để mừng lúa mới, mừng được mùa, mong lúa đầy
kho để phát triển hơn”
Tiếng đàn đá trong ngày hội như lời vang vọng
của núi rừng. Âm thanh của đàn đá vừa sống động, vừa vui nhộn vừa trầm lắng, nhịp
nhàng, du dương khó tả… Ở âm vực cao, tiếng đàn đá nghe thanh thót xa xăm. Ở âm
vực trầm, đàn đá vang lên như tiếng dội từ vách đá. Tiếng đàn đá lúc như thì thầm
từ quá khứ, như lời kể sẻ chia vui buồn với người dân Bon làng. Điều thú vị là
các thang âm của bộ đàn đá tìm thấy ở thời nay hoàn toàn tương đồng với thang
âm cồng chiêng Tây nguyên.
Qua hàng ngàn năm, dù đã chuyển sang sử dụng
nhạc cụ đồng như cồng và chiêng, nhưng người Tây nguyên nói chung và người
M’Nông nói riêng vẫn lưu giữ được những bộ đàn đá cổ. Tập quán chơi đàn đá phổ
biến của đồng bào M’nông cổ xưa vẫn được gìn giữ qua nhiều thế hệ như tiếp nối
truyền thống văn hóa dân tộc.
Kèn Rlet.Kèn Rlet.
Kèn Rlet – Nhạc cụ độc đáo của người
M’nông
Trong các loại nhạc của người M’nông, kèn
Rlet là loại nhạc cụ đặc biệt, có vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh.
Người M’nông tin rằng, đời sống, sức khoẻ,
công việc làm ăn của mọi thành viên trong gia đình, dòng họ phụ thuộc vào ba vị
thần: đó là thần Lúa, thần Kuắt (Kuắt là một túi dây rừng) và thần Rlet. Đồng
bào tin rằng khi thổi Rlet có thể gọi được thần Lúa về, đuổi ma xấu đi, chính
vì thế Kèn Rlet không thể thiếu trong lễ cúng lớn, có vai trò đặc biệt trong đời
sống tinh thần, tâm linh của cộng đồng người M’nông.
Kèn Rlet được cấu tạo gồm một ống nứa nhỏ
đường kính chừng 1,5-1,8cm, dài khoảng 35cm, cắm xuyên qua vỏ một quả bầu khô.
Đoạn ống nứa nằm trong thân bầu có một lỗ nhỏ; gắn một lưỡi gà làm bộ phận phát
âm; đầu kia của ống nứa được cắm ngang qua một ống nứa lớn có đường kính khoảng
5cm, dài từ 15-20cm, đáy ống có mắt nứa bịt kín, đầu trên vát nhọn…
Khi thổi Rlet người ta đổ nước vào ống này
để luồng hơi thổi phải qua ống nước mới ra ngoài, khiến âm thanh của Rlet trở
nên trong và ấm hơn. ống của Rlet được khoét 3 lỗ, khi thổi kèn, nghệ nhân tuần
tự gác lỗ, kèn Rlet sẽ cho 3 âm thanh có âm vực cách xa nhau tạo thành một phối
âm phù hợp với ba chiếc chiêng dẹt của người M’nông.
Đồng bào M’nông quan niệm nhà nào có kèn
Rlet để trong nhà thổi thời gian từ một tháng đến lâu nhất là ba năm phải cúng
một con trâu, cúng trâu xong thì mang kèn Rlet cất trên bàn thờ ông bà, không
thổi nữa. Mỗi lần nhà có làm lễ cúng bái đều phải cúng kèn Rlet. Họ cho rằng có
kèn Rlet để trên bàn thờ, ma quỷ không dám vào nhà quấy phá gia đình.
Nghệ nhân K' Ngân thôi kèn Rlet.Nghệ nhân K’ Ngân
thôi kèn Rlet.
Ngày làm kèn Rlet phải mời các già làng, cử
một số thanh niên đến giúp việc chuẩn bị cho nhà sắp tổ chức lễ. Gia đình nào
làm kèn này phải kiêng cữ đủ chuyện: cữ ăn cá lóc, cá trê, cữ ăn thịt trâu bò
cúng lễ, khi xuất bán vật nuôi cũng phải cúng bái. Chủ nhà giữ tục kiêng cữ đến
khi nào tuốt lúa xong, chém trâu tạ thần linh, bỏ kèn thì mới hết kiêng cữ. Cuối
năm đó, dù có thu được vài gùi lúa cũng buộc phải giết trâu hoặc bò cúng trả ơn
thần kèn Rlet đã bảo vệ cho rẫy lúa và gia đình trong cả năm.
Có ba trường hợp phải làm kèn Rlet:
Thứ nhất, thú rừng vào rẫy hoặc bị chết
trong rẫy, người ta phải làm kèn để đuổi các thần xấu ấy đi. Trường hợp này họ
thổi kèn từ lúc chưa tỉa lúa đến tháng ba năm sau, chém trâu hoặc bò tạ thần
linh rồi bỏ.
Thứ hai, trong nhà có người đau ốm triền
miên, chữa trị không hết phải làm kèn để đuổi ma quỷ quấy phá. Trường hợp này
có thể thổi đến ba năm, sau đó chém trâu tạ thần rồi mới bỏ.
Thứ ba, làm kèn Rlet gọi thần lúa từ trên
trời xuống. Trường hợp này, từ ngày làm kèn đến ngày chém trâu tạ thần không
quá một tháng thì bỏ, không được sử dụng nữa.
Việc thổi kèn Rlet không được tuỳ tiện mà
phải theo một quy định đặc biệt, người ta phải làm một cái sạp cho người thổi
Rlet (có thể là đàn ông hoặc đàn bà song phải là người đứng đắn, tốt, được bà
con hàng xóm yêu mến, công nhận), ngồi để thổi kèn sát cạnh cột buộc trâu.
Cùng với Đinh Tak ta của người Êđê, kèn
Rlet của người M’nông cũng được các nhà nghiên cứu, sưu tầm âm nhạc dân gian
Tây Nguyên cải tiến, thể nghiệm, sáng tác những bài bản mới dựa trên chất liệu
dân gian để đưa vào phục vụ biểu diễn nghệ thuật quần chúng và chuyên nghiệp.
Nhạc cụ người M'Nông.Nhạc cụ người M’Nông.
Âm nhạc dân gian trong nghi lễ của người
M’nông
Trong các lễ hội của đồng bào M’nông thì
các loại hình âm nhạc dân gian được sử dụng một cách phổ biến, rộng rãi và được
chia làm hai nhóm: nhóm âm nhạc nghi lễ sẽ tham gia trực tiếp vào tiến trình của
nghi lễ và nhóm âm nhạc dùng trong phần hội.
Có lẽ do âm hưởng của cuộc sống luôn gần
gũi với môi trường thiên nhiên như tiếng cành cây, tiếng chim hót, tiếng của
thân tre, nứa đập vào nhau, tiếng nước chảy róc rách…nên các nhạc cụ đã hình
thành nên một hệ thống âm thanh tương ứng. Âm thanh của các loại nhạc cụ cũng
phản ánh khá rõ những quan niệm của đồng bào đối với thần linh, với gia đình,
dòng họ, cộng đồng, không chỉ là cơn gió mát xoa dịu những nhọc nhằn, lo toan của
cuộc sống mà còn làm an lòng cộng đồng, bon làng.
Bên cạnh các loại nhạc cụ thì các hình thức
nghệ thuật ca hát cũng thường xuất hiện trong các nghi lễ, lễ hội của người
M’nông. Hình thức ca hát gắn bó với các lễ nghi là khấn thần (rac brah) và nó
mang yếu tố hát kể, hát khóc như khóc trâu…Điều đáng nói nữa là cùng với những
loại nhạc cụ, làn điệu dân ca thì ở bất kỳ một lễ hội nào của đồng bào M’nông
cũng đều có sự hiện diện của những điệu múa xoang truyền thống. Có thể nói, sự
góp mặt của âm nhạc làm cho không gian của lễ hội như huyền bí, linh thiêng hơn
và chính âm nhạc là “phần hồn” tạo nên sự hoàn thiện cho toàn bộ nội dung của
các nghi lễ. Bởi vậy, các lễ hội cổ truyền của đồng bào M’nông không chỉ mang
giá trị tinh thần to lớn mà còn mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Điều dễ nhận thấy nhất là nhạc cụ của người
M’nông tuy đơn giản, thô sơ, được chế tạo từ những nguyên liệu có trong tự
nhiên như tre nứa, lồ ô, gỗ…nhưng không kém phần phong phú về chủng loại. Việc
sử dụng các nhạc cụ của đồng bào M’nông luôn gắn liền với nhiều sự kiện của đời
sống xã hội. Phong phú, đa dạng và chiếm một tỉ lệ khá cao là các nhạc cụ thuộc
bộ gõ, chúng bao gồm từ những nhạc cụ có cấu tạo, cấu trúc âm thanh đơn giản
cho đến những loại có cấu tạo phức tạp. Trong các lễ hội cổ truyền của đồng bào
M’nông thì không thể vắng mặt dàn cồng chiêng. Do cồng chiêng là nhạc cụ
thiêng, là “linh hồn” của dân tộc nên chỉ được sử dụng trong lễ hội lớn của cộng
đồng như lễ mừng lúa mới, lễ sum họp cộng đồng, lễ kết nghĩa bon buôn…Ở đây, tiếng
chiêng là lời hiệu triệu, là “linh hồn” làm nên buổi lễ, là phương tiện giúp
con người giao tiếp, thỉnh cầu thần linh chứng giám lòng thành và ban cho mưa
thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu…Thậm chí, tại các nghi lễ liên quan đến
voi hay nghi lễ thuộc vòng sinh trưởng của cây thì cũng có sự xuất hiện của dàn
chiêng. Mặt khác, xuất phát từ quan niệm “vạn vật hữu linh” nên đồng bào M’nông
cho rằng mỗi nhạc cụ đều có một vị thần trú ngụ, nên phải được sử dụng trong một
không gian, ngữ cảnh nhất định. Trong các lễ hội, nghi lễ, ngoài cồng chiêng
còn có sự tham gia của các loại nhạc cụ truyền thống của dân tộc như M’boắt,
Drơn, Mló, Goong rêng…Chính những nhạc cụ này làm nên không khí vui nhộn cho lễ
hội. Riêng nhạc cụ Đing gơr chỉ được sử dụng trong tang lễ.
Lễ sum họp của người M'nông, Đắk Nông. Lễ sum họp
của người M’nông, Đắk Nông.
Lễ sum họp của người M’nông, Đắk Nông
Lễ hội sum họp của người M’Nông (Đắk Nông)
là dịp để bà con thắt chặt thêm sợi dây liên kết, tình cảm của dòng tộc và cộng
đồng giữa các bon làng với nhau để chống chọi với thiên tai, thú dữ và giặc dã
bên ngoài.
Lễ sum họp cộng đồng thường được tổ chức
vào đầu mùa xuân, khi hạt lúa đã đầy bồ, cà phê đã đầy kho. Đây là lễ lớn với sự
tham gia của nhiều bon làng, nên phải 3 đến 5 năm mới tổ chức một lần với quy
mô lớn từ 5 – 10 bon làng tham gia.
Trước lễ hội khoảng 2 tháng, khi vừa thu
hoạch xong, già làng của các bon sẽ họp lại, thống nhất địa điểm, quy mô tổ chức
lễ. Đến dự lễ, mỗi bon làng đều mang theo các sản vật tự làm ra như heo, gà,
lúa gạo, rượu cần; và bon chủ nhà cũng phải chuẩn bị tương tự như vậy để
đãi khách.
Dâng trâu để tế thần trong lễ Sum họp.Dâng trâu để
tế thần trong lễ Sum họp.
Trước ngày lễ một tuần, 1 cây nêu lớn sẽ
được dựng lên, để thông tin và mời gọi các thần linh biết mà về dự lễ với bon
làng. Phần ngọn trên cây nêu được trang trí nhiều bông, hình chim, nai kết bằng
tre nứa, được tô vẽ khéo léo, tinh xảo. Thân cây nêu trang trí hoa văn với màu
chủ đạo là đen, đỏ và trắng. Ở giữa thân cây nêu là một mâm tre hình vuông bày
biện các lễ vật cúng thần như thịt, cơm, bầu rượu cần.
Bên cạnh cây nêu lớn còn dựng một cây nêu
thấp hơn bằng cây gòn gai, đầu cây được gọt thành hình mỏ con chim đại bàng với
ý nghĩa thông tin cho tổ tiên biết để về dự lễ. Ngay trước hai cây nêu là một
hàng rào nhỏ tượng trưng cho ranh giới giữa con người trần tục và thần linh.
Quanh hai cây nêu dựng thêm hai nhà dài bằng tre lợp lá, là nơi để mọi người
giao lưu, nghỉ ngơi khi đã chu đáo và thành kính chuẩn bị xong mọi thứ.
Mở đầu lễ, các giàn chiêng thi nhau tấu
lên những bài chiêng chào đón khách; nam thanh nữ tú nắm tay nhau ca hát, nhảy
múa vòng tròn quanh cây nêu. Đây cũng là lúc già làng tiến hành nghi thức đâm
trâu cầu các thần linh chứng giám, giúp cho bon làng làm ăn phát đạt, dân làng
gắn bó.
Ðồng bào các dân tộc sum vầy bên lửa trại
Lễ Sum họp cộng đồng.Ðồng bào các dân tộc sum vầy bên lửa trại Lễ Sum họp cộng
đồng.
Sau khi làm lễ đâm trâu để tế thần, thịt
trâu được chế biến tại chỗ để mời khách, một phần được chia ra cho mọi người
trong bon mang về, người không đi cũng có phần. Cứ thế mọi người vừa thưởng thức
món ăn, rượu cần, vừa giao lưu sinh hoạt, hát dân ca, dân vũ, hát đối đáp, các
nghệ nhân hát kể Ot’rông quanh đống lửa bập bùng kéo dài tận đêm khuya. Ngày
hôm sau, mọi người tiếp tục tổ chức các trò chơi dân gian như bắn nỏ, nhảy bảo
bố, đẩy gậy, đi cà khoeo, kéo co… tạo không khí vui tươi, phấn khởi thu hút
đông đảo người dân đến xem và đây là dịp tốt để các dân tộc trong tỉnh trao đổi,
học tập lẫn nhau về cách bảo tồn các môn thể thao dân tộc.
Trong 3 ngày diễn ra lễ hội Sum họp cộng đồng,
không khí lễ hội rất linh thiêng, sôi nổi và phấn khởi, những người tham gia
tái hiện lại lễ hội cũng như người dân đến xem luôn hoà quyện với nhau trong
không khí rộn ràng của lễ hội, ai cũng mong muốn những điều tốt đẹp nhất đến với
bon làng mình, cộng đồng mình.
Có thể nói, lễ hội Sum họp cộng đồng là một
lễ hội lớn có tầm vóc và quy mô lớn của đồng bào M’nông, nó vượt ra khỏi không
gian, thời gian và cộng đồng bon làng. Nếu trong phần lễ thể hiện nguyện vọng của
đồng bào cầu mong thần linh phù hộ mưa thuận gió hoà, cây cối tốt tươi, mùa
màng no đủ, xua đuổi ma qũy, thú dữ giữ gìn bình yên cho các bon làng, nhà nhà
no ấm thì phần hội là tâm điểm thu hút sự chú ý của mọi người. Đây là một dịp tốt
để các nghệ nhân, các thành viên trong các bon làng thể hiện tài năng, sức quyến
rũ bởi các tiếng mục mà họ mang tới lễ hội như: diễn tấu cồng chiêng, hát dân
ca, dân vũ, hát đối đáp, hội thi các môn thể thao dân tộc… Tính cộng đồng trong
phần hội này rất cao khi những người đến xem cũng được tham gia nhảy múa, uống
rượu cần như những người chủ nhân của lễ hội.
Thông qua lễ hội, làm tăng thêm sự đoàn kết
nhất trí trong cộng đồng bon làng và rộng hơn là nhiều bon làng, nhiều tộc người;
đồng thời việc tổ chức lễ hội còn góp phần gìn giữ, bảo tồn những nét đẹp văn
hoá truyền thống của đồng bào M’nông.
Già làng thực hiện nghi thức bôi máu lên
cây nêu.Già làng thực hiện nghi thức bôi máu lên cây nêu.
Lễ cúng mưa đầu mùa của đồng bào M’nông, Đắk
Nông
Cúng mưa đầu mùa là một nghi lễ quan trọng
và có ảnh hưởng lớn đến đời sống tâm linh của người M’Nông (Đắk Nông); là dịp để
người dân trong bon chia sẻ, giúp đỡ nhau và cầu mong cuộc sống an lành, ấm no…
Theo quan niệm của người M’Nông, mưa đầu
mùa là cơn mưa độc nên cần tổ chức lễ cúng cầu may, giải độc. Sau khi chọn được
ngày tốt, già làng sẽ thông báo cho mọi người trong bon. Lễ cúng được thực hiện
trên một khuôn viên rộng đã được quét dọn sạch sẽ. Mọi người tham gia đều phải mặc
trang phục truyền thống để thể hiện sự trang trọng, thiêng liêng. Tại khu vực
làm lễ, già làng sẽ đặt một quả bí kỳ nam tại cổng nơi làm lễ với ý nghĩa xua
đuổi ma quỷ không cho vào hại dân làng.
Linh hồn của lễ là cây nêu được làm bằng
cây tre, có chiều dài từ 2-3m, trên thân cây gắn những hình con vật đan bằng
tre nứa rất sinh động như dê, trâu, chim, gà… Trên ngọn cây nêu có treo một
chùm bông lúa tượng trưng được vót ra từ thân cây tre già. Trước đó, những người
phụ nữ trong bon đã chuẩn bị những món ăn truyền thống như canh thụt, canh bồi,
cơm lam, thịt nướng… chuẩn bị dâng cúng thần linh.
Trước khi làm lễ, già làng lấy huyết heo
bôi lên cây nêu để mời các thần linh về chứng giám cho bon làng. Sau khi báo với
các thần linh về dự lễ cúng mưa, già làng thông báo với bà con trong bon thực
hiện các nghi lễ cúng mưa đầu mùa. Nghi thức dâng lễ vật cho các thần linh diễn
ra ngay tại gốc cây nêu.
Lễ vật là những sản phẩm, thành quả lao động
sản xuất của mọi người trong bon làng làm ra, bao gồm: một ché rượu cần, một
chén tiết heo, thịt heo nướng, 5 quả trứng gà, 1-2 cục than, 2-3 củ nghệ, một
quả bí kỳ nam, một khúc chuối được khắc hình con voi. Lễ vật đựng sẵn trong những
chiếc gùi được các chàng trai, cô gái mang đến; già làng sẽ lần lượt nhận lấy
và đặt vào trong nia.
Già làng dâng lễ vật lên các thần linh.Già làng
dâng lễ vật lên các thần linh.
Khi các thủ tục dâng lễ đã hoàn tất, già
làng tiến hành cúng để cầu may, giải hạn với những lời khấn có nội dung: “Hỡi
các thần siêu nhiên, các dịch bệnh tai họa, ma quỷ, xui xẻo… đừng nên vào bon
làng chúng tôi, để bon làng có sức khỏe lao động, sản xuất, trồng lúa, hoa
trái, trồng cây đậu, cây sắn được xanh tốt từ cơn mưa này. Bon làng no đủ, hạnh
phúc, sức khỏe dồi dào, bình yên”.
Sau khi cúng xong, già làng cùng bà con uống
rượu cần cảm ơn thần linh đã che chở cho bon làng, mọi người lại cùng nhau
gióng lên những hồi chiêng, những giai điệu m’buốt, làn điệu dân ca được cất
cao, hòa nhịp, kết nối con người với thần linh, con người với thiên nhiên…
Những bài hát dân ca trong lễ cúng mưa đầu
mùa vang vọng ước mong, kèm theo những nỗi niềm hân hoan: mùa mưa lại đến với
bon làng, mưa làm cho hạt nảy mầm, cho hoa màu phát triển, đơm hoa khoe sắc thắm,
tôm cá dưới nước tung tăng bơi lội; từ cơn mưa, nay cho mưa thuận gió hòa, đừng
có sấm sét… Kết thúc phần lễ, các bon làng trong xã sẽ tổ chức thi kéo co cùng
nhiều trò chơi dân gian khác.
Nghi lễ kết thúc khi già làng mời những
người con trai, con gái của bon làng đánh chiêng, múa hát mừng lễ hội. Sau lễ
cúng, mọi người không được đi khỏi bon, làng trong 4 ngày sau đó.
Lễ cúng nêu của người M’Nông.Lễ cúng nêu của người
M’Nông.
Nghi lễ cắm nêu cúng lúa của người M’nông,
Đắk Nông
Cắm nêu cúng lúa là nghi lễ không thể thiếu
trong cuộc sống tâm linh của người M’nông (Đắk Nông), nhằm cầu mong thần linh
che chở và phù hộ cho lúa tốt, được mùa, gia đình no ấm, hạnh phúc…
Đắk Nông là vùng đất giao thoa, hội tụ những
giá trị của văn hóa vật chất và tinh thần. Các lễ hội của đồng bào M’nông là loại
hình văn hóa dân gian hết sức quan trọng trong đời sống cộng đồng. Ở đó còn lưu
giữ những nét văn hóa đặc trưng riêng thể hiện qua các lễ hội truyền thống gắn
với đời sống tâm linh huyền bí như lễ hội: rượu cần, mừng lúa mới, lễ cưới hỏi,
lễ trưởng thành,… Trong đó nghi lễ cắm nêu cúng lúa.
Lễ cắm nêu cúng lúa được diễn ra khi lúa
đã được làm cỏ, vun gốc hai lần. Lễ cắm nêu cúng lúa được tiến hành như sau: Buổi
sáng ngày chuẩn bị cắm nêu cúng lúa, chủ rẫy đi ra khu rẫy sẽ cúng lúa, lấy dây
buộc túm phần lá của vài bụi lúa và khấn thông báo cho thần lúa biết ngày làm lễ
cắm nêu cúng lúa. Đại ý lời khấn: Hôm nay ta báo cho hồn lúa, hồn kê, hồn bầu,
hồn bí ta sẽ cắm nêu cúng lúa. Các thần lúa, thần kê, thần đậu, thần mướp đến
ngày đó các thần gọi nhau về ăn lợn, ăn gà, ăn vịt, uống rượu nhà ta. Mời các
thần ở luôn nhà mình. Khấn vái hẹn ngày với các thần lúa xong, chủ rẫy bắt đầu
làm nêu cúng lúa.
Lễ vật cúng gồm: lợn, gà, vịt, rượu, hai
cây nêu đã làm (một cây để cắm trước nhà, một cây cắm ở ngoài rẫy), cây cau rừng,
cây lúa khô, củ bí kì nam (khắc thành mặt người). Những con vật hiến sinh này đều
được buộc quanh cột nêu từ tối hôm trước cho đến sáng hôm sau.
Tối hôm đó chủ nhà khấn vái mời các thần
lúa, thần ngô, thần đậu, thần mướp, thần bầu bí đến ăn lợn gà và ở lại nhà
mình.
Sáng hôm sau chủ nhà giết các con vật hiến
sinh này lấy tiết, mật, gan, tim và một con gà đem vào rẫy làm lễ cúng. Chủ rẫy
dựng một cây nêu ở trên rẫy và lấy tiết con vật hiến sinh bôi vào cây nêu, cầu
xin thần lúa yên tâm ở lại với rẫy gia đình nhà mình.
Khi cúng rẫy xong, chủ nhà chặt một số cây
cau rừng đem về cùng với củ bí kì nam (tượng trưng cho thần giữ nhà) đem về đặt
trước nhà để xua đuổi ma quỷ. Người M’nông quan niệm rằng, củ bí kì nam sẽ giữ
cho gió bão không tràn qua rẫy, các thần xấu, thần ác như thần Krăch, thần Ndu
thấy củ bí kì nam cũng phải tránh xa, không vào phá rẫy.
Cúng trên rẫy xong, về nhà: chủ nhà lấy tiết
gà, vịt bôi vào cây nêu ở nhà rồi khấn vái: Hôm nay mời các thần sâu, thần mối
về nhà uống rượu, ăn thịt, mong các thần sâu, thần mối ăn no uống say bảy tám
ngày liền, ngủ thật say ba bốn tháng mới tỉnh, không ra được rẫy để phá lúa. Bà
vợ chủ rẫy hát cúng: Hỡi các thần hãy xua đuổi con chuột, con sóc, con heo rừng
tránh xa không vào rẫy phá lúa, phù hộ cho gia đình được mùa, gia đình tôi sẽ
làm lễ tạ ơn các thần.
Sau đó người nhà cũng không quên mời khách
đến chung vui với gia đình, họ cùng nhau gặp gỡ ca hát, nhấp những ché rượu cần
vui vẻ. Rồi mọi người bắt đầu uống rượu, người trộn lúa giống khi trỉa lúa được
mời uống trước, tiếp đến chủ nhà và bà con anh em trong bon làng. Mọi người vừa
uống rượu vừa đánh chiêng hát múa vui vẻ cùng hòa quyện với âm thanh hùng vĩ của
núi rừng trầm bổng, cái âm hưởng của cuộc sống lao động nơi núi rừng hoang sơ.
Thực hiện nghi thức cúng lúa trong kho.Thực hiện
nghi thức cúng lúa trong kho.
Lễ cúng nhập hồn lúa của người M’nông
Lễ cúng nhập hồn lúa của người M’nông vừa
là nghi thức tâm linh, gọi thần lúa từ nương rẫy về kho, ở cùng với các thành
viên trong gia đình, vừa là để phù hộ cho mọi người có sức khỏe, sung túc cả
năm…
Trong quan niệm của người M’Nông xã Đắc
Phơi (Đắk Lắk), thần Lúa là linh hồn của mọi vật, là vị thần đáng tôn thờ nhất.
Khi lúa chín, các nghi lễ cúng lúa sẽ rộn lên trong các gia đình. Từ lễ tuốt
lúa đến cúng hồn lúa từ rẫy về kho sẽ được tổ chức nhộn nhịp.
Cúng nhập hồn cho lúa là lễ cuối cùng
trong nghi thức cúng vòng đời lúa. Trước đó, bà con đã làm lễ cúng lúa trổ
đòng, dựng cây nêu ở ngoài rẫy để cầu được mùa, lúa chắc hạt và lễ cúng tuốt
lúa.
Khi năm cũ sắp hết năm mới đang đến, khi
lúa rẫy đã về kho, cái cuốc cái cào đã được rửa sạch giắt dưới gầm sàn, đồng
bào M’nông ở xã Đắc Phơi lại tổ chức lễ nhập hồn lúa.
Đồ lễ cúng gồm: bột gạo, rượu cần, tiết
heo, và những gié lúa được bỏ trong gùi nhỏ, chủ nhà dùng một đoạn ống tre được
chặt ra từ cây nêu trồng ở rẫy từ lúc lúa trổ đòng để thổi, gọi hồn lúa về ở
cùng gia đình, cho ai cũng được sức khỏe, cho cả năm luôn đủ ăn, sung túc… Con
gà trống như một vật chứng được dùng để cúng hôm tuốt lúa ở rẫy lại được đem ra
lấy tiết để cúng nhập hồn lúa vào kho. Tiết ở miệng gà được bôi lên khắp các dụng
cụ, vật dụng sinh hoạt của gia đình để chứng tỏ rằng hồn lúa đã hiện diện ở
nhà.
Bột gạo được giã từ những hạt lúa mới rồi
trộn với tiết gà, bôi lên cổ của tất cả các thành viên trong gia đình để cầu
mong sức khỏe, kho lúa cũng được vẽ bùa để cầu mong mùa màng tốt tươi, lúa luôn
đầy kho.
Kết thúc lễ cúng bà con cả buôn cùng ăn
cơm mới, uống rượu cần, đánh chiêng và múa hát.Kết thúc lễ cúng bà con cả buôn
cùng ăn cơm mới, uống rượu cần, đánh chiêng và múa hát.
Lúa rẫy được cất trong kho từ ngày này qua
ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, chỉ dùng để nấu
cháo, làm rượu cần và thết đãi bà con họ hàng trong các dịp lễ tết.
Đồ lễ cúng tại kho lúa gồm đầu lợn, rượu,
cháo, muối. chủ nhà leo lên nóc kho lúa, dùng sừng trâu đổ rượu từ trên đỉnh
kho lúa cho đến khi rượu chảy xuống tận đáy kho, chảy xuống gầm sàn, như thế cả
gia đình sẽ có một năm đủ đầy, sung túc.
Khi các nghi thức cúng lễ đã xong là lúc
bà con cả buôn cùng ăn cơm mới, uống rượu cần, đánh chiêng và múa hát. Với bà
con ở buôn Jê Juk thì đây là dịp để mọi người cùng gặp, chuyện trò sau những
ngày mùa vất vả, cùng ăn uống, vui chơi để chúc mừng cho vụ mùa bội thu.
Kết thúc một vụ mùa cũng là lúc tiễn năm
cũ đi và đón chào năm mới, ai cũng cầu mong năm mới sẽ có thêm nhiều may mắn,
trâu bò lợn gà thêm sinh sôi, lúa ngô khoai sắn thêm tốt tươi.
Lễ cúng nhập hồn lúa vừa là nghi thức tâm
linh, gọi thần lúa từ nương rẫy về kho, ở cùng với các thành viên trong gia
đình, phù hộ cho mọi người có sức khỏe, đủ ăn, sung túc cả năm, vừa là câu chuyện
văn hóa đẹp, thể hiện sự trân trọng của cộng đồng đối với cây lúa – sản vật
chính đem lại no ấm cho buôn làng.
Con em dân tộc M’nông tổ chức lễ mừng thọ
cho cha, mẹ khi bước sang tuổi 60.Con em dân tộc M’nông tổ chức lễ mừng thọ cho
cha, mẹ khi bước sang tuổi 60.
Độc đáo Lễ mừng thọ của người M’nông, Đắk
Nông
Với đồng bào M’nông (Đắk Nông), lễ mừng thọ
có ý nghĩa rất to lớn, nó là một hình thức nhắc nhở cho thế hệ trẻ khắc ghi
công ơn của đấng sinh thành đã có công cưu mang và dưỡng dục, hy sinh cho con lớn
khôn thành người nhân nghĩa.
Theo phong tục truyền thống của đồng bào
M’nông thì con gái lập gia đình được chia tài sản, được hưởng thừa kế tài sản của
cha, mẹ. Vì vậy, lễ mừng thọ do người con gái cả tổ chức hoặc do sự đóng góp của
tất cả chị em khi cha mẹ đã bước sang tuổi 60 (thường tổ chức vào tháng 3 hàng
năm, sau khi đã kết thúc mùa rẫy).
Lễ mừng thọ của người M’nông diễn ra theo
trình tự: Người nhà chuẩn bị tất cả các đồ cúng như rượu cần, thủ lợn, gà, xôi,
câu chúc thọ… Đến giờ tốt, thầy cúng thắp hương cầu khấn mong thần linh phù hộ
cho người già được khỏe mạnh, sống lâu cùng con cháu.
Lễ vật tặng bố, mẹ thường là một bộ quần
áo thổ cẩm truyền thống, gia đình nào khá giả thì tặng cho bố mẹ một đôi chăn
thổ cẩm, ché rượu cần, làm thịt một con heo chừng 50kg, sau đó làm một mâm cơm
cúng tổ tiên rồi mừng người thượng thọ.
Trong buổi lễ, các thành viên trong gia
đình lần lượt thay phiên nhau mời bố mẹ uống rượu cần, gắp thức ăn và nói lời cầu
chúc cha, mẹ. Kể từ khi lễ mừng thọ kết thúc thì tất cả mọi công việc thường
ngày của các cụ đều được giao cho con cháu.
Lễ mừng thọ cũng là một hình thức nhắc nhở
cho thế hệ trẻ khắc ghi công ơn của đấng sinh thành.Lễ mừng thọ cũng là một
hình thức nhắc nhở cho thế hệ trẻ khắc ghi công ơn của đấng sinh thành.
Hằng tuần, con cháu trong gia đình luân
phiên đến thăm hỏi, trò chuyện, ai muốn đón cha mẹ về nhà mình chơi phải được sự
đồng ý của người chị cả. Khi cha, mẹ sang tuổi 80, ngoài việc gia đình mừng thọ
theo định kỳ 10 mùa rẫy thì già làng cùng dân làng đóng góp, tổ chức mừng thọ ở
nhà văn hóa cộng đồng. Sau khi ăn uống và nhận lời chúc mừng của con cái và bà
con thì các cụ sẽ nói về bí quyết sống lâu, sống khỏe của mình.
Người M’Nông tâm niệm: “ Còn cha còn mẹ
thì còn tất cả , mất cha mất mẹ như nhà mất nóc”. Bởi vây, với đồng bào M’nông,
lễ mừng thọ có ý nghĩa rất to lớn. Bởi lẽ, mỗi khi nhà nào tổ chức lễ mừng thọ
thì con cháu, bà con trong bon đều tề tựu để cầu chúc cho ông bà sống lâu trăm
tuổi. Hơn nữa, đây còn là cơ hội để cho anh chị em trong nhà quây quần bên
nhau, cùng nhau chia sẻ những khó khăn và trải nghiệm của cuộc sống, cùng nhau
xây dựng kế hoạch để chăm sóc đấng sinh thành tốt hơn.
Bên cạnh đó, Lễ mừng thọ cũng là một hình
thức nhắc nhở cho thế hệ trẻ khắc ghi công ơn của đấng sinh thành đã có công
cưu mang và dưỡng dục. Vì thế, cho dù cuộc sống có khó khăn đến đâu nhưng đồng
bào chúng tôi vẫn luôn chăm sóc cho ông bà cha mẹ một cách đầy đủ và chu đáo.
Lễ mừng thọ là một trong những truyền thống
tốt đẹp của người M’nông nói riêng và của cả dân tộc ta nói chung. Vì thế, việc
duy trì, gìn giữ phong tục lễ mừng thọ của đồng bào M’nông góp phần xây dựng nền
tảng đạo đức, lối ứng xử giữa con người với con người ngày càng tốt đẹp hơn.
photo
Voi là biểu tưởng sức mạnh trong đời sống
của người M'nông.Voi là biểu tưởng sức mạnh trong đời sống của người M’nông.
Độc đáo nghi lễ cúng sức khỏe cho voi của
người M’nông, Đắk Lắk
Nghi lễ cúng sức khỏe cho voi ở buôn Jun,
thị trấn Liên Sơn, huyện Lắk (Đắk Lắk) là một nghi lễ truyền thống, được tộc
người M’nông nơi đây gìn giữ, lưu truyền hàng ngàn đời nay.
Đối với đồng bào M’nông, voi là một tài sản
quý, là biểu tượng sức mạnh, sự giàu có và tinh thần thượng võ của gia đình,
buôn làng. Chính vì vậy, đồng bào M’nông có khá nhiều nghi lễ đối với voi. Một
trong số đó có nghi lễ cúng sức khỏe cho voi.
Nghi lễ cúng sức khẻo cho voi được tổ chức
hàng năm tại buôn Jun, thị trấn Liên Sơn, huyện Lắk, thời gian tổ chức không cố
định, tuỳ thuộc vào công việc, sức khỏe của voi và của chủ voi. Nghi lễ này được
cộng đồng cả buôn cùng tham gia, mỗi gia đình đều đóng góp lễ vật như choé rượu,
con heo lớn nhỏ tuỳ theo điều kiện. Đặc biệt, khi chủ voi nào tổ chức nghi lễ
cúng sức khỏe cho voi của mình thì tất cả các con voi khác trong buôn hoặc một
số buôn gần đó cũng được cúng.
photo
Nghi lễ cúng sức khỏe cho voi của người
M’Nông.Nghi lễ cúng sức khỏe cho voi của người M’Nông.
Theo truyền thống của M’nông, nghi lễ cúng
sức khỏe cho voi được tổ chức trong 3 ngày, có ý nghĩa tưởng nhớ đến tổ tiên,
những người có công đối với buôn đã khuất; cầu cho chủ voi và gia đình có sức
khẻo dồi dào, mùa màng bội thu, có cuộc sống no đủ để chăm sóc cho đàn voi; cầu
cho đàn voi có sức khỏe để phụ giúp đồng bào những công việc nặng như kéo gỗ, vận
chuyễn hàng hóa, bắt, thuần dưỡng voi rừng… Và nhất là cầu cho con voi luôn
trung thành với chủ, được các vị thần linh cai quản và che chở, như vị thần
Yang Tel là vị thần cai quản đất đai, phù hộ cho nương rẫy của chủ voi trong việc
chọn rẫy và canh tác sao cho đất đai màu mỡ, hoa màu tốt tươi, mùa màng bội
thu, cây cỏ xanh tươi quanh năm đủ thức ăn cho đàn voi, luôn theo dõi đàn voi
nhà. Đặc biệt là những con voi mới thuần chủng.
Nghi lễ cúng tổ chức thứ tự, ngày thứ nhất
cúng tổ tiên (Trôc băng jang), ngày thứ hai cúng sức khỏe cho chủ nhà (Văt săk
gal săk jăn), ngày thứ ba cúng sức khỏe cho voi (Văt yo gal jăn).
Trong lúc đọc lời cúng, thầy cúng dùng vật
tế, rượu pha huyết bôi lên đầu từng con voi do nài voi điều khiển đến thứ tư
theo độ tuổi của voi (lớn trước, nhỏ sau), ý nghĩa thể hiện sự trung thành giữa
voi và người, để các thần linh ngăn cản và chỉ bảo đàn voi không phá hoại mùa
màng, hoa màu của con người làm ra. Sau khi nghi thức cúng voi hoàn tất, chủ
nhà voi mời tất cả chủ voi, nài voi và tất cả khách đến dự một buổi ăn mừng, mọi
người chúc nhau những điều tốt lành cho đến tan buổi tiệc.
Nghi lễ cúng sức khỏe cho voi được người
M’nông tổ chức hàng năm, nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
tốt đẹp của dân tộc; Qua đó, tôn vinh giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc
Tây Nguyên trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Cô dâu chú rễ M'Nông.Cô dâu chú rễ M’Nông.
Độc đáo lễ cưới của người M’nông Gar ở Đắk
Lắk
Dân tộc M’nông Gar có những nét văn hóa đặc
sắc đã góp phần làm phong phú nét văn hóa chung của công đồng dân tộc tỉnh Đắk
Lắk. Một trong những biểu hiện đó là các nghi thức trong lễ cưới.
Lễ cưới của dân tộc M’nông Gar ở Đắk Lắk
là một phong tục đẹp, giàu tính nhân văn, giàu bản sắc văn hoá dân tộc. Theo
phong tục của đồng bào M’nông Gar, cứ sau một mùa rẫy là các bon làng tổ chức
các nghi lễ – lễ hội vòng đời người, nhằm tạ ơn các vị thần linh trong trời đất,
tạ ơn tổ tiên ông bà đã phù hộ cho mọi người lúa thóc đầy bồ, heo bò đầy sân,
chật bãi. Trong các nghi lễ này, có lễ cưới truyền thống được mọi người quan
tâm hơn cả.
Lễ cưới theo phong tục cổ truyền của người
M’nông Gar, trải qua các nghi thức sau:
Lễ dạm: Sau khi đã chọn được cô gái vừa ý,
chàng trai thưa với cha mẹ. Nếu cha mẹ của chàng trai đồng ý thì nhờ ông cậu
trong gia đình hoặc ông mối trong dòng họ đi đến nhà gái để ngỏ lời cho con
trai mình, gọi là lễ dạm. Đến nhà gái, nhà trai đặt lên chiếc nia một tô gạo trắng,
một con gà nướng, một chuỗi cườm đeo cổ, một chiếc váy. Ông cậu hoặc ông mối
thay mặt chàng trai hỏi cô gái làm vợ. Nhà gái cử người trong dòng họ ra tiếp lễ
và yêu cầu nhà trai đọc gia phả của gia đình mình. Sau đó nhà gái đọc gia phả
nhà mình, nếu hai bên không cùng một bà tổ, không cùng một dòng họ thì được kết
hôn với nhau. Tuy vậy, trước khi nhận lễ của nhà trai, cha mẹ cô gái hỏi con
gái mình lần nữa, nếu cô gái đồng ý thì mới nhận. Lúc này cha mẹ cô gái mang một
ché rượu lớn để làm lễ nhận lời hứa hôn. Thầy cúng đại diện nhà gái lấy cần hút
ra một bát rượu pha tiết gà trống rồi xoa lên cột nhà chính, thần đá bếp, kho
thóc, nhà cửa… khấn báo với các thần linh là nhà gái đã nhận lời hứa hôn với
nhà trai. Sau đó hai bên cùng uống rượu vui vẻ và chọn ngày làm lễ ăn hỏi.
Lễ hỏi: Sau lễ dạm một năm, gia đình nhà
trai tiến hành lễ hỏi vợ cho con trai mình. Trong lễ này, gia đình nhà trai chuẩn
bị hai ống nứa đựng măng chua, một chuỗi cườm, một vòng đồng. Đến nhà gái, nhà
trai đặt mọi lễ vật lên cái nia, và xin phép nhà gái hỏi vợ cho con trai mình.
Bên nhà gái cử người nhận lễ vật và cho nhà trai làm lễ hỏi vợ.
Lễ cưới bên nhà gái: Sau lễ hỏi khoảng một
tuần thì hai bên tổ chức lễ cưới. Đầu tiên là lễ cưới bên nhà gái. Nhà gái chuẩn
bị 100 gùi gạo giã trắng như bông, 100 ché rượu, giết một con bò để đãi khách.
Chuẩn bị 50 cái tô, 50 cái chén, 50 chuỗi cườm để làm quà tặng cho cha mẹ và
dòng họ chú rể. Lễ vật nhà trai mang sang nhà gái, gồm 6 ché rượu lớn, ba ché
cao tượng trưng cho người chồng, ba ché thấp tượng trưng cho người vợ; 50 ống đựng
măng chua bịt da trâu, trong đó có một ống cao và một ống thấp; một chuỗi cườm;
một cái xà gạc; 1 con dao nhỏ; một cái cuốc nhỏ; tất cả đựng trong một cái gùi
được trang trí những tua bông chỉ màu đỏ, vàng, xanh. Lễ vật của nhà trai mang
qua nhà gái còn có một con heo lớn (khoảng 7 gang tay), 1 con gà trống thiến để
nhà gái làm lễ cúng tổ tiên ông bà trong ngày cưới.
Múa "Mừng hạnh phúc lứa đôi" của
dân tộc M'Nông.Múa “Mừng hạnh phúc lứa đôi” của dân tộc M’Nông.
Nhà gái thực hiện nghi thức bôi tiết heo
pha rượu lên các lễ vật của nhà trai mang đến. Sau đó là nghi thức trao lễ vật.
Sau nghi thức trao lễ vật, nhà gái làm lễ dâng rượu lên thần ông bà, thần bảo vệ
sức khoẻ, hạnh phúc cho đôi trai gái, thần mẹ sinh, cha dưỡng của đôi trai gái,
rồi mời cha mẹ, cô cậu của cô dâu, chú rể uống rượu, và can dặn đôi trai gái ăn
ở hoà thuận, thương yêu nhau, tôn trọng họ hàng hai bên, đoàn kết với bon làng.
Tiếp đến là nghi thức cụng đầu. Trong nghi
thức này, hai ông mối hai bên kể gia phả của dòng họ, nêu gương tốt của ông bà
để đôi vợ chồng trẻ học tập.Trong lúc đôi trai gái đang say sưa nghe kể gia phả,
thì bất ngờ ông mối xô cô dâu, chú rể chạm vào nhau thật mạnh, va càng mạnh
càng mạnh càng tốt (với ý nghĩa tâm đầu ý hợp) để xây dựng một cuộc sống hạnh
phúc bền lâu. Sau nghi lễ này còn có nghi thức mời cơm cha mẹ thể hiện sự báo
hiếu đối với cha mẹ hai bên của đôi trai gái; nghi thức tung gà thể hiện sự xin
lỗi của chủ nhà về những gì còn thiếu xót trong đám cưới của nhà gái. Ở đây mọi
người vừa uống rượu vừa ăn thịt, ăn cơm giao lưu vui vẻ, ai cũng cầu cho đôi bạn
trẻ sống hạnh phúc. Cuối cùng là nghi thức tiễn nhà trai về.
Lễ cưới bên nhà trai: Các nghi thức lễ cưới
bên nhà trai cũng như bên nhà gái: dâng lễ vật, dâng rượu, mời cơm cha mẹ, tung
gà,mời rượu, tiễn nhà gái ra về. Trước khi chia tay nhà gái, nhà trai mang con
heo cúng trao cho nhà gái, nhà gái cũng chỉ nhận một nữa đầu heo. Nhà gái ra về,
cô dâu ở lại bên nhà chồng trong vòng 7 ngày. Trong bảy ngày này, cô dâu được
nhà trai dẫn đi thăm bà con họ hàng của chàng trai, hoà mình cùng cuộc sống gia
đình nhà trai như: nấu cơm, giã gạo, làm rượu, dệt vải, đi rừng kiếm củi, hái
măng…
Sau một tuần, cha mẹ cô gái mang lễ vật (1
con gà, 1 ché rượu) sang nhà trai xin đón đôi trai gái về ở nhà mình. Nhà trai
làm con heo đãi nhà gái rồi đưa tiễn đôi bạn trẻ về nhà gái trong tình cảm yêu
thương quyến luyến.
Lễ cưới của dân tộc M’nông Gar là một
phong tục đẹp, nằm trong nghi lễ vòng đời. Đây là một nghi lễ giàu tính nhân
văn, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, cần được gìn giữ, phát huy trong đời sống cộng
đồng.
Những
trò chơi dân gian luôn là những điểm
nhấn tạo nên nét văn hóa đặc sắc trong các lễ hội của người M’nông.Những trò
chơi dân gian luôn là những điểm nhấn
tạo nên nét văn hóa đặc sắc trong các lễ hội của người M’nông.
Trò chơi dân gian độc đáo trong các lễ hội
truyền thống của người M’nông, Đắk Nông
Trong các lễ hội của người M’nông (Đắk
Nông) không thể thiếu các trò chơi dân gian truyền thống của đồng bào. Nó luôn
mang lại sự hào hứng thú vị cho người tham gia.
Trong các lễ hội truyền thống của người
M’nông, bên cạnh phần nghi lễ linh thiêng, trang trọng, một trong những hoạt động
không thể thiếu mang đậm bản sắc văn hóa đó là các trò chơi dân gian như: Đánh
chiêng đốt cây chuối tươi, thi bắt cá, bắt cá trong ché…
Triệu Thị Bắc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét