Nhà Rông của tộc Ba Na.
Việt Nam chúng ta có một diện tích trải dài trên ngàn cây
số dọc theo biển Đông với 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc lại có những âm điệu,
lời ca đặc thù riêng biệt. Trước tiên giới thiệu đến các bạn Dân ca
Bahnar/Ba Na của Dân tộc Bahnar/Ba Na.
Tộc Bahnar/Ba Na (các tên gọi khác: Ba Na Trên
Núi, Ba Na Dưới Núi, Ba Na Đông, Ba Na Tây, Tơ Lộ, Bơ Nâm, Glơ Lâng, Rơ Ngao,
Krem, Roh, Con Kde, A la công, Krăng, Bơ Môn, Kpăng Công, Y Lăng)
có dân số khoảng 227.716 người. Họ có nhiều tên gọi khác nhau như thế bởi theo
nơi cư trú hay phong tục tập quán của mỗi vùng.
Theo Tổng điều tra dân số vào năm 2009, Dân tộc Bahnar/Ba
Na cư trú tại 51 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố, chủ yếu tập trung tại các tỉnh:
Gia Lai (150.416
người, chiếm 11,8% dân số toàn tỉnh và 66,1% tổng số người Ba Na tại Việt Nam)
Kon Tum (53.997
người, chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh và 23,7% tổng số người Ba Na tại Việt Nam)
Phú Yên (4.145
người, chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh và 23,7% tổng số người Ba Na tại Việt Nam)
Bình Định (18.175
người, chiếm 8,0% tổng số người Ba Na tại Việt Nam)
Đắk Lắk (301 người)
Bình Thuận (133 người)
Dân tộc Bahnar/Ba Na thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer.
Người Bahnar/Ba Na sinh sống nhờ nông nghiệp, chủ yếu là
trồng rẫy. Cùng với trồng trọt, từng gia đình thường có nuôi gia cầm, gia súc
như trâu, bò, dê, lợn, gà. Chó cũng được nuôi nhưng không bị giết thịt. Hầu như
mỗi làng đều có lò rèn. Một số nơi biết làm đồ gốm đơn giản, phụ nữ dệt vải tự
túc đồ mặc trong gia đình. Đàn ông đan chiếu, lưới, các loại gùi, giỏ, mủng… Việc
mua bán theo nguyên tắc hàng đổi hàng, xác định giá trị bằng gà, rìu, gùi thóc,
lợn hay nồi đồng, ché, chiêng,cồng, trâu v.v.
Ở mỗi làng có một nhà công cộng là nhà Rông to, đẹp ở giữa
làng. Nhà rông cao lớn và đẹp đứng nổi bật giữa làng, đó là trụ sở của làng,
nơi các già làng họp bàn việc công, nơi dân làng hội họp, nơi trai chưa vợ và
góa vợ ngủ đêm, nơi tiến hành các nghi lễ phong tục của cộng đồng và cũng là
nơi tiếp khách lạ vào làng.
Nhà ở của người Bahnar/Ba Na thuộc loại hình nhà sàn. Trước
đây khi chế độ gia đình lớn còn thịnh hành, ở vùng người Ba Na sinh sống thường
có những căn nhà dài hàng trăm mét, tuy nhiên hiện nay chế độ gia đình lớn
không còn nữa, mô hình các gia đình nhỏ với những căn nhà sàn gọn gàng xuất hiện
ngày càng nhiều. Nhà sàn ngắn của các gia đình nhỏ là phổ biến. Nhà sàn thường
dài từ 7m đến 15m, rộng từ 3m-4m, cao từ 4m-5m, sàn cách mặt đất khoảng 1m đến
1,5m.
Mặc dù có nhiều thay đổi, nhưng vẫn tìm được ở nhiều địa
phương khác nhau những ngôi nhà Ba Na với những đặc điểm đặc trưng của nhà cổ
truyền Ba Na là nhà nóc hình mai rùa hoặc chỉ còn là hai mái chính với hai mái
phụ hình khum – dấu vết của nóc hình mai rùa. Chỏm đầu dốc có “sừng” trang trí
(với các kiểu khác nhau tùy theo địa phương). Vách che nghiêng theo thế “thượng
thu hạ thách”. Có nhà, cột xung quanh nhà cũng chôn nghiêng như thế vách. Thang
đặt vào một sàn lộ thiên trước cửa nhà. Trên sàn này người ta đặt cối giã gạo
(cối chày tay). Điểm đáng chú ý là dưới đáy cối có một cái “ngõng”. Khi giã gạo
người ta cắm cái ngõng ấy vào một cái lỗ đục trên một thanh gỗ đặt trên sàn.
Nhà tre vách nhưng có thêm lớp đố, bên ngoài buộc rất cầu kỳ như là một lớp
trang trí. Bộ khung nhà kết cấu đơn giản. Có làm vì kèo nhưng vẫn trên cơ sở của
vì cột. Tổ chức mặt bằng đơn giản.
Người Bahnar/Ba Na cho phép tự do tìm hiểu và lựa chọn bạn
đời, việc cưới xin đều theo nếp cổ truyền. Vợ chồng trẻ ở luân phiên mỗi bên một
thời gian, theo thỏa thuận giữa hai gia đình hai bên, sau khi sinh con đầu lòng
mới làm nhà riêng. Trẻ em luôn được yêu quý. Dân làng không đặt trùng tên nhau.
Trong trường hợp những người trùng tên gặp nhau, họ làm lễ kết nghĩa, tùy tuổi
tác mà xác lập quan hệ anh-em, cha-con, mẹ-con. Các con được thừa kế gia tài
như nhau. Trong gia đình, mọi người sống hòa thuận bình đẳng. Người Ba Na thờ
cúng nhiều thần linh.
Trước đây, trai gái Bahnar/Ba Na khi đến tuổi trưởng
thành (20 tuổi đối với nam; 18 tuổi đối với nữ), được tự do yêu thương, tìm hiểu
lẫn nhau, nhưng quyền quyết định đi đến hôn nhân không phải không có ảnh hưởng
của cha mẹ. Trong thực tế, nhiều khi cha mẹ can thiệp rất nhiều vào chuyện hôn
nhân của con cái. Thậm chí, trong một số trưởng hợp, quyết định gả cưới của cha
mẹ hoàn toàn đi ngược lại mong muốn của các con. Chính vì vậy, trong ngôn ngữ của
người dân ở đây tồn tại hai thuật ngữ hôn nhân. Trong tường hợp trai gái tự do
yêu đương và tìm người bạn đời tiến tới hôn nhân, người dân gọi là chărơihkơ
ding (hôn nhân tự chọn); trường hợp cha mẹ quyết định gả bán con theo ý kiến riềng
của mình, người dân gọi là mẽ bă pơ giao ăn (cha mẹ gả bán)
Nam giới Bahnar/Ba Na mặc áo chui đầu, cổ xẻ. Đây là loại
áo cộc tay, thân áo có đường trang trí sọc đỏ chạy ngang, gấu áo màu trắng. Nam
mang khố hình chữ T theo lối quấn ngang dưới bụng, luồn qua háng rồi che một phần
mông. Ngày rét, họ mang theo tấm choàng. Ngày trước nam giới búi tóc giữa đỉnh
đầu hoặc để xõa. Nếu có mang khăn thì thường chít theo kiểu đầu rìu. Trong dịp
lễ bỏ mả, họ thường búi tóc sau gáy và cắm một lông chim công. Nam cũng thường
mang vòng tay bằng đồng.
Phụ nữ Bahnar/Ba Na ưa để tóc ngang vai, có khi búi và
cài lược hoặc lông chim, hoặc trâm bằng đồng, thiếc. Có nhóm không chít khăn mà
chỉ quấn bằng chiếc dây vải hay vòng cườm. Có nhóm như ở An Khê, Mang Giang hoặc
một số nơi khác họ chít khăn trùm kín đầu, khăn chàm quấn gọn trên đầu. Trước
đây, họ đội nón hình vuông hoặc tròn trên có thoa sáp ong để khỏi ngấm nước,
đôi khi có áo tơi vừa mặc vừa che đầu. Họ thường đeo chuỗi hạt cườm ở cổ và
vòng tay bằng đồng xoắn ốc dài từ cổ đến khủy tay (theo kiểu hình nón cụt). Nhẫn
được dùng phổ biến và thường được đeo ở hai, ba ngón tay. Tục xả tai phổ biến vừa
mang ý nghĩa trang sức vừa mang ý nghĩa tín ngưỡng của cộng đồng. Hoa tai có thể
là kim loại, có thể là tre, gỗ. Tục cà răng mang theo quan niệm của cộng đồng
hơn là trang sức. Phụ nữ Bahnar/Ba Na mặc áo chủ yếu là loại chui đầu, ngắn
thân và váy. Áo có thể cộc tay hay dài tay. Váy là loại váy hở, thường là ngắn
hơn váy của người Ê Đê, ngày nay thì dài như nhau. Quanh bụng còn đeo những
vòng đồng và cài tẩu hút thọc vào đó.
Về tạo hình áo váy, người Bahnar/Ba Na không có gì khác
biệt mấy so với dân tộc Gia-rai hoặc Ê-đê. Tuy nhiên, nó khác nhau ở phong cách
mỹ thuật trang trí hoa văn, bố cục trên áo váy của người Ba Na. Theo nguyên tắc
bố cục dải băng theo chiều ngang thân người, dân tộc Bahnar/Ba Na dành phần
chính ở giữa thân áo và váy với diện tích hơn một nửa áo, váy cũng như hai ống
tay để trang trí hoa văn (chủ yếu là hoa văn với các màu trắng đỏ), nền chàm
còn lại của áo váy không đáng kể so với diện tích hoa văn. Thắt lưng váy được dệt
thêu hoa văn và tua vải hai đầu, được thắt và buông thõng dài hai đầu sang hai
bên hông.
Nghệ nhân A Thút – tộc Ba Na.
Trong kho tàng văn nghệ
dân gian, dân tộc Bahnar/Ba Na có các làn điệu dân ca, các điệu múa trong những
ngày hội hay các nghi lễ tôn giáo. Nhạc cụ của họ đa dạng với:
Bộ gõ: cồng, chiêng, kết cấu đa dạng.
Đàn: t’rưng, brọ, khinh khung, gôông, klông pút, kơni
Kèn: tơ nốt, arơng, tơ tiếp…
Về Sử thi, dân tộc
Bahnar/Ba Na có 30 bài:
1. Ghiông, Giơ mồ côi
từ nhỏ
2. Ghiông làm nhà mồ
3. Anh em Giang Nam
4. Chàng Kơ Tam Gring Mah
5. Dăm Noi
6. Ghiông cứu đói dân
làng mọi nơi
7. Ghiông cứu nàng
Rang Hu
8. Ghiông đánh quỷ
Bung Lung
9. Ghiông đạp đổ núi
đá cao ngất
10. Ghiông đi tìm vợ
11. Ghiông, Giơ đi săn
chém cọp của Dăm Hơ Dang
12. Ghiông lấy khiên
đao bok Kei Dei
13. Ghiông lấy nàng
Bia Phu
14. Ghiông leo mía thần
15. Ghiông Trong Yuăn
16. Giơ hao jrang
17. Atâu So Hle, Kơne
Gơseng
18. Bia Phu bỏ Ghiông
19. Cọp bắt cóc Ghiông
thuở bé
20. Ghiông bọc trứng
gà
21. Ghiông cưới nàng
Khỉ
22. Ghiông dẫn các cô
gái đi xúc cá
23. Ghiông đánh hạ nguồn
cứu dân làng
24. Ghiông đi đòi nợ
25. Ghiông giết sư tử
cứu làng Set
26. Ghiông kết bạn với
Glaih Phang
27. Ghiông ngủ ở nhà
rông của làng bỏ hoang
28. Ghiông nhờ ơn thần
núi làm cho giàu có
29. Ghiông sắn trâu rừng
30. Set xuống đồng bằng
thăm bạn
Dân ca Bahnar/Ba Na:
CHIỀU VỀ
Ơ đồi ơi
Nắng chiều đã xuống rồi
Ơ đồi ơi!
Chiều xuống dần núi đồi
Ơ đồi ơi!
Đàn chim về tổ rồi.
NS Nguyễn Đình Nghĩa ký âm.
BẠN ƠI LẮNG NGHE
Hỡi bạn ơi cùng nhau lắng
nghe
Tiếng dòng suối ngoài
xa thì thào
Tiếng đàn cá vui đùa
đáy cát
Tiếng làn sóng trôi,
suối ào ào.
NS Nguyễn Đình Nghĩa ký âm.
Dưới đây mình có các
bài:
– Hoa trong thơ ca dân
gian của người Bahnar Kriêm
– Vẻ đẹp của sử thi
Bahnar
– “Nghệ nhân đa tài” của
đại ngàn Tây Nguyên
– Hơmon – Sử thi Kon
Tum đã thành Di sản văn hóa quốc gia
– Dân ca Bana
– Tìm hiểu một số giai
điệu đặc trưng của dân ca Tây Nguyên
– Tết Dúi của người Ba
Na Jơ Lưng ở Kon Tum
– Lễ Hội Đâm Trâu của
người Bana
– Ấm cúng Tết Nguyên
đán của người Ba Na, Kon Tum
– Lễ hội Sơmă Kơcham của
người Ba Na, Gia Lai
– Lễ hội ăn cốm mới của
người Bana ở Bình Định
– Lễ tạ ơn cha mẹ của
người Ba Na ở Kon Tum
– Trang phục Ba Na –
Hơi thở đại ngàn
– “Nhà dài” – Kiến
trúc độc đáo của người Ba na
– Nhà thờ gỗ – kiến
trúc độc đáo, đậm chất dân tộc Ba Na
Cùng với 8 clips tổng
thể văn hóa dân tộc Bahnar/Ba Na để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Hoa trong thơ ca dân gian của người Banar Kriêm
Ở mãi tận xã vùng cao Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Thạnh (Bình Định),
rừng cây ngút ngàn, bốn màu lộng gío mát và hao thơm đã đi vào thưo ca nhưu
dòng suối mát không bao giờ cạn đối với mỗi con người Banar ở đây. Thơ ca dân
gian chủ yếu là tự sáng tác, khi có cảm hứng hay bằng trái tim rung động và
truyêng miệng cho nhau. Những lời ca mộc mạc có vần có điệu roc ràng, mang nội
dung cụ thể, ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thuộc. Từ bao đời nay thơ ca vốn là
tiếng nói gần gũi, say mê trong mọi sinh hoạt của mỗi con người Banar. Trong cuộc
sống hàng ngày, tróng các lễ hội đồng bào ở đây có thể thiếu áo, váy mặc đẹp,
cơm thịt thơm ngon nhưng không thể thiếu được lời ca, tiếng hát. Từ những đứa
bé mới chào đời, người mẹ Banar đã có bài Pơ nhông kon, Ưm Kom… để ru ngủ, cho
đến tiễn người già ra đi cũng có bài: Hmon tiễn biệt.
Khi tiềm hiểu thơ ca dân gian của người Banar (thơ gọi
là Tơ mro, hoặc là Nâr pơđớk và ca gọi
là Joi hoặc Hơ Ri). Ta thấy thơ của người Banar cũng có vần điệu,
thường thơ bốn chữ và sáu chữ. Trong thực tế cuộc sống thơ của người Banar vùng
này ít “sống” một mình như thơ của anh em người Kinh. Thơ ra đời là chất liệu để
cấu thành lời ca (trước đây người Banar không có nhạc lý). chuyển tải ngay những
nội dung mà lời thơ muốn nói. Qua thực tế chúng tôi thấy những nghệ nhân, ở đây
vừa là người sáng tác thơ, vừa là người trình diễn nội dung đó qua làn điệu dân
ca. Bài hát mà mình sáng tác được mới đầu chỉ hát một mình, sau dần dần mới
truyền miệng để mọi người cùng hát
Thơ dân gian của người Banar Kriêm mang nhiều nội dung
phong phú, đa dạng, đi sâu vào nhiều lĩnh vực hằm ca ngợi cái đẹp trong lao động
sản xuất, trong tình yêu nam, nữ, tình yêu quê hương đất nước, thiên nhiên hùng
vĩ. Trên rừng có nhiều loài hoa đẹp là nỗi niềm cảm hứng của những nghệ nhân
làm thơ, ca. Hoa tượng trung cho cái đẹp, là niềm kiêu hãnh, là ước nguyện của
bao con ngwoif muốn vươn tới cái đẹp. Đồng bào người Banar phần lớn sống trên
các vùng rừng núi cao, gắn liền với rừng cây, chim thú, sông suối và hoa thơm,
quả ngọt. Mỗi con người ở đây họ rất yêu hoa như một thứ của quý mà ông Yàng (Trời) đã ban cho họ. Ở nhà mọi người nhìn
hoa qua cánh cửa, lên rừng nhìn hoa qua các cành cây, sông suối, nhìn hoa lung
linh qua ánh nước…hoa mọc xung quanh con người…cho nên đời hoa và đời người đã
đi vào thơ ca của người Banar là thường tình, cụ thể và cũng rất mộc mạc.
Cheng reh, oh liêm dang pơ kao chen reh
Wưeng long, oh liêm dang pơ kao veng long
Ơ drong đum, oh liêm dang pơ kao drong đum
Jur hum, oh liêm dang xem jong jur hum…
Tạm dịch:
Cheng reh, em đẹp như hoa Cheng reh
Trên cao, em đẹp như hoa trên cành cây cao.
A dong, em đẹp như hoa
A dong đỏ giữa rừng.
Em đẹp như con chim
xem jong xuống tắm sông trong…
(Dân ca Banar)
Tôi đã có dịp gặp anh
Đinh Y Chương người Banar ở làng Kon Blo, có thể nói anh là một trong những nghệ
nhân sáng tác về múa dân gian, anh còn giỏi về sáng tác thơ ca. Thơ của Anh ngắn
gọn, môck mạc, dễ hiểu, dễ nhớ. Có lần hai anh em chúng tôi xuống làng uống rượu
cần suốt đêm. Sáng hôm sau trên đường về, anh sáng tác và hát luôn cho tôi nghe
bài: Hoa sim
(Pơ kao lơ ngữm):
Lơ ngữm brưt pơ kao
hluôi rang
Bũng lang brưt pơ kao
hluôi keh
Pơ kao kơ đeh in ya
liêm hech
Pơ kao Wech in ya liêm
loi,
Wa phe, inh kli pơ
kao…yôp jăm
Tạm dịch:
Tim tím mùa hoa sim
Tim tím cánh hoa mùa
Hoa nào thấy cũng đẹp
Đọng mãi trong ánh mắt
Muốn hái nhưng sợ hoa…
cười
Vỏ cây A dong làm lá
phướn treo trên rẫy. Hoa A dong kết thành từng chùm, màu đỏ, cánh giống như
cánh hoa Blang trông rất đẹp. Cây a dong chỉ có ở những khu rừng già.
Đã bao đời nay hoa A
dong đã đi vào cuộc sống tâm hồn thơ ca của người Banar. Chị em phụ nữ yêu hoa
thường hay ví von:
Nhong liêm dang pơ kao
A dong
Brông gôh tơ pắt weng
dơng
Chơng năm chơ in wă
ngo
Do năngchơ in kang lô
Wă gô, lu krao ăn
thong
Khong liêm dang pơ kao
A dong…
Tạm dịch:
Anh đẹp như hoa A dong
Ven rừng đâu đây, hoa
rực đỏ
Hoa đẹp càng muốn ngó,
muốn trông
Càng ngó, càng trông,
càng thấy tiếc
Muốn cõng hoa đẹp-cùng
sang sông
Nhưng hoa chỉ chín ở
trong lòng
Anh đẹp như hoa A
dong…
(Dân ca Banar Kriêm)
Hoa cũng thường gắn liền
với thiên nhiên đẹp, là rừng cây xanh, con nước trong, con chim rừng và những
con người ở đây. Trong bài thơ: “Kúk ku pơ ra tốk Bre mai” đây là một bài thơ hay, đồng thời cũng
chính là một bài hát hay, vui, rôn, mang đầy tình cảm, quyện vào nhau giữa
thiên nhiên đẹp và con người mà nhiều người banar ai cũng biết tới. Bài hát: Kúk ku pơ ra tốk Bre mai (Con
chim pơ ra tốk Chị em ơi) chính
là một bài thơ chuyển thành. Bài thơ nảy từ trong thực tế cuộc sống, người
Banar truyền miệng cho nhau hát từ trước đến nay.
Kuk ku pơ ra tôk bre mai
Brih brah hla kông
Kuk ku pơ ra tôk bre
mai
Brông brang hla đum
Kuk ku pơ ra tôk bre
mai
Jur hum weng krong…
Oaih lah keh hyôk dang ei.
Tạm dịch:
Con chim pơ ra tốk –
Chị em ơi!
Núi rừng mình đẹp lắm
Con chim pơ ra tốk –
Chị em ơi!
Rừng đầy hoa, sắc hương
thơm
Con chim pơ ra tốk –
Chị em ơi!
Sông, nước, rừng trong
xanh…
Vui sướng quá cuộc đời
ơi.
(Dân ca Banar)
Đã bao đời nay người
Banar Kriêm yêu rừng, gắn bó máu thịt với rừng không chỉ vì đất rừng đã cho cái
rẫy mà còn cho cả hoa thơm quả ngọt. Trước đây người Banar phát rừng làm rẫy, rừng
không chỉ chi nhiều lúa, nhiều bắp, nhiều mì… mà còn rất thủy chung với con người
ở đây. Các tên núi rừng như: Kông Bók Bang, Kông Kring, Kông Kơ pah, Kông Xrút… vẫn mênh mông một màu xanh. Rừng cây
hoa lá là nguồn sống ngọt ngào như dòng sữa mẹ không bao giờ cạn trong thơ ca
dân gian của người Banar Kriêm.
Một đêm hát kể sử thi ở làng Hơn, xã Ya Ma, huyện Kông
Chro. (ảnh
Nguyễn Văn Huynh)
Vẻ đẹp của sử thi
Bahnar
Ra đời và tồn tại như
một mắt xích quan trọng trong cuộc sống, Hơmon-sử thi của người Bahnar gắn liền
với tên tuổi những anh hùng thần thoại, những anh hùng của buôn làng Tây Nguyên
nói chung, người Bahnar nói riêng, từng được bao thế hệ ngưỡng vọng như Diông,
Dư, Dăm Noi… Mang trong mình những giá trị lịch sử, giá trị văn hóa về một giai
đoạn lịch sử nhất định, Hơmon là một phần bản sắc của dân tộc Bahnar, phản ánh
lịch sử, xã hội cũng như tâm tư, nguyện vọng của cộng đồng, đẹp như một khúc
tráng ca.
Hơmon – Sử thi Kon Tum đã thành Di sản văn hóa quốc gia
Sử thi Ba Na – Kon Tum (Hơmon của người Ba Na nhóm Rơ
Ngao ở Kon Tum) đã được sưu tầm từ một dự án lớn cấp quốc gia do Viện Nghiên cứu
Văn hóa dân gian (thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam) phối hợp với các tỉnh
Tây Nguyên tiến hành từ năm 2000-2001 điều tra sưu tầm về sử thi các dân tộc
thiểu số. Từ đây, hệ thống sử thi liên hoàn quí hiếm của dân tộc Ba Na nhóm Rơ
ngao ở Kon Tum đã được các nghệ nhân và các nhà nghiên cứu văn hóa tái hiện lại
nguyên bản, tổ chức biên dịch một cách công phu, tỷ mỷ và xuất bản các tác phẩm
sử thi này vào năm 2007 để phát hành. Đóng góp công sức vào kết quả to lớn này,
ngoài các nhà nghiên cứu văn hóa của Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian.
Sử thi là thể loại văn học dân gian rất độc đáo của các
dân tộc thiểu số, trước đây thường hay gọi là Trường ca, anh hùng ca – một loại
hình ngữ văn tự sự dân gian truyền miệng xuất hiện sớm trong lịch sử, phản ánh
những sự kiện quan trọng của cộng đồng buổi sơ khai, ca ngợi những người anh
hùng trong các chiến trận để bảo vệ cộng đồng dân làng, chống lại các thế lực
áp bức, ca ngợi những con người tiêu biểu giúp cộng đồng xây dựng buôn làng,
khai phá đất đai, bày cho dân biết làm nương rẫy, chống đỡ sự tàn phá của thiên
nhiên kỳ bí, của muông thú hung bạo… cho tới nay vẫn được lưu giữ trong trí nhớ
của đồng bào và thường được diễn xướng trong các sinh hoạt tại cộng đồng.
Bằng thể loại văn vần xen lẫn văn xuôi dài hàng ngàn câu,
với những tuyến nhân vật đan xen nhau thể hiện những giai đoạn lịch sử tiêu biểu
của từng dân tộc thiểu số. Có vùng thì chỉ hát kể, có vùng thì vừa hát kể vừa
kèm theo diễn xuất rất linh hoạt và thu hút. Cùng với diễn xướng và hát kể, còn
có cả nghệ thuật thể hiện nhân vật, nghệ thuật miêu tả và kể chuyện, những chi
tiết hào hùng, kỳ vĩ về đại ngàn Tây Nguyên, về thiên nhiên tươi đẹp và hoang
dã của núi rừng. Thông qua đó, người nghe nhận biết được quan niệm về sự ra đời
của đất, trời, của con người, tâm linh tín ngưỡng, mối quan hệ trong cộng đồng,
phong tục tập quán, những hình thức sinh hoạt mang tính cộng đồng, cộng cảm, sự
hình thành và phát triển đời sống xã hội…được trình diễn một cách rất hấp dẫn,
kết cấu chặt chẽ, có chương có đoạn, có mở có kết rất tài tình. Là sự thể hiện
về khát vọng của đồng bào về một xã hội tươi đẹp, một cuộc sống đủ đầy, bình đẳng,
cái thiện thắng cái ác…
Nghe hát kể Hơmon – sử thi ở làng.
Hơmon của người Ba Na nhóm Rơ Ngao ở Kon Tum bao gồm một
hệ thống các tác phẩm liên hoàn với nhau, tập trung kể về nhân vật trung tâm-
người anh hùng có tên gọi là Giông. Đó là chàng trai dũng cảm, có sức mạnh và
tài năng xuất chúng. Mỗi câu chuyện trong hệ thống sử thi liên hoàn này của người
Ba Na Rơ Ngao kể về một chiến công nổi bật của người anh hùng Giông và bạn bè,
anh em của chàng. Do đó, mỗi câu chuyện, mỗi tác phẩm có tính độc lập tương đối,
có thể tồn tại như những tác phẩm hoàn chỉnh, trọn vẹn, chẳng hạn như các tác
phẩm : Giông, Giỡ mồ côi từ nhỏ, Giông đánh hạ nguồn cứu xứ sở, Giông cứu nàng
Rang Hu, Giông đi tìm vợ, Giông cưới nàng Khỉ, Giông làm nhà mồ, Giông cứu đói
dân làng mọi nơi… đặt trong chuỗi sử thi-hơmon liên hoàn, mỗi câu chuyện, mỗi
tác phẩm trở thành một mắt xích, một “hạt” trong toàn bộ hệ thống và có quan hệ
với nhau về mặt trình tự cũng như nội dung ý nghĩa. Giá trị của Hơmon Ba Na Rơ
Ngao nằm ở tính hệ thống, tính đồ sộ của nó – hệ thống sử thi liên hoàn, một
thành tựu đầy ý nghĩa của dân tộc Ba Na trong quá trình xây dựng, phát triển, kế
thừa và bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống của mình.
Hình thức hát kể Hơmon của người Ba Na nhóm Rơ Ngao được
diễn xướng rất thoải mái, tự nhiên trong những sinh hoạt thường ngày. Các tác
phẩm Hơmon được kể bằng văn xuôi xen lẫn những đoạn hát kể bằng văn vần với
phong cách ngôn từ hồn nhiên, chất phác. Nghệ thuật hát kể Hơmon thu hút rất
đông người nghe, đặc biệt trong dịp nông nhàn, lễ hội, mùa mưa… trong không
gian nhà rông hoặc nhà sàn, bên cạnh bếp lửa lung linh, huyền ảo và kỳ bí,
Hơmon được thể hiện một cách đầy sống động và lôi cuốn người nghe. Tuy nhiên,
không phải ai cũng thể hiện được Hơmon, số người Hơmon được ở Kon Tum hiện nay
cũng chỉ còn tính trên đầu ngón tay và cũng đang trông chờ chính sách mới của
Nhà nước về xem xét công nhận Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân Ưu tú để các Nghệ
nhân này có điều kiện tốt hơn và có thể trao truyền lại được loại hình văn hóa
cổ truyền dân gian này cho lớp trẻ.
Tết đến, Xuân về lại càng thêm nồng đượm, khi mà Hơmon –
Sử thi của người Ba Na nhóm Rơ Ngao ở Kon Tum nói riêng và Sử thi Tây Nguyên
nói chung – những di sản văn hóa có giá trị tư tưởng to lớn được sáng tạo từ
ngàn đời nay, niềm tự hào của các dân tộc thiểu số đã trở thành di sản của quốc
gia.
Dân ca Bana
Đồng bào Bana Vĩnh Thạnh còn có tên gọi Bana Kriêm sống
trên địa bàn các huyện Hoài Ân, An Lão, Vân Canh. Riêng Vĩnh Thạnh có 7.647 người
ở 26 làng dọc sông Kôn. Những làn điệu dân ca Bana còn lại ngày nay đều ở dạng
truyền miệng qua trí nhớ của người già nên đã bị mất mát khá nhiều. Khối lượng
dân ca Bana Kriêm ở Vĩnh Thịnh đã sưu tầm và bảo tồn cho đến nay khá phong phú
và đặc sắc.
Dân ca Bana ngoài giá trị văn học, âm nhạc, còn có giá trị
về lịch sử xã hội và dân tộc. Hiểu dân ca Bana là phải hiểu từ cái gốc, xuất xứ
và đặc điểm riêng.
Tôi muốn xem hoa rung reng đẹp
tôi muốn xem hoa còn ở trên cây
nhưng còn sợ trên cây có kiến
còn sợ con ong chưa
bay đi.
Hay:
Lấy mật đừng đốt con ong
Ăn quả đừng chặt mất gốc.
Chỉ có họ, người Bana mới có cảnh như vậy, ý nghĩ như vậy.
Ngay cả quan niệm về cuộc sống vũ trụ và thần linh cũng thế.
Đi đâu họ cũng thấy núi, ở đâu họ cũng gặp rừng. Thần
linh và cả con ma đều ở xung quanh họ, vừa xa vời lại vừa gần gũi. Cái thế giới
bên kia và thế giới bên này là một. Họ có mê tín nhưng không ngu tín, cuộc sống
buộc họ phải luôn tỉnh táo đề phòng. Chính từ đặc điểm này đã sản sinh ra một nền
dân ca Bana đặc sắc.
Có thể tạm chia dân ca Bana làm 3 thể loại: Khan hơ mon
(tạm dịch là sử thi), hát ru và bài cúng tế trong các lễ hội. Hát ru của người
Bana có những nét riêng, trước hết là kiểu cách ru của họ. Đồng bào Bana không
có nôi, không có võng, thậm chí giường nằm cũng không vì phải sống và lao động ở
môi trường luôn có thú dữ rình rập nên đứa con phải ở luôn bên mình. Nhỏ thì
cõng trên lưng, lớn thì dắt theo bên cạnh, đàn ông mang rựa ná đi trước, đàn bà
mang gùi theo sau. Người mẹ vừa trỉa bắp, trỉa lúa vừa ru; vừa giã gạo, lấy nước
vừa ru. Họ ru không chỉ bằng lời mà bằng cả hơi ấm và sự chuyển động của thân
thể theo những tiết tấu nhịp điệu của lời ru, vừa êm ái lại vừa nhẹ nhàng. Lời
ru bay ra từ miệng quyện lẫn vào gió, vào nắng, vào hương hoa rót vào lòng đứa
trẻ âm thanh huyền diệu của bao la đất trời:
Ngủ đi con ơi đừng khóc
Lớn mau chân tay như cây chò, cây trắc
Ngủ đi con đừng khóc
Cây lớn lên từ đất
Có gốc rồi mới có ngọn
Ngủ đi con ơi đừng khóc.
Hát ru của người Bana không chỉ ở người mẹ mà ở cả người
bà, người chị. Trẻ con là tài sản của làng, ai cũng phải có trách nhiệm nâng
niu. bảo vệ.
Người Bana có quan niệm rằng trẻ con vốn từ trời đất về với
con người, có tai nhưng chưa biết nghe, sau lễ thổi tai người mẹ có nhiệm vụ phải
“thông tai” cho con bằng những bài hát ngắn, mộc mạc dễ nhớ, dễ thuộc báo cho
con biết con từ đâu đến, sẽ ở với ai và phải làm gì cho dân làng thương, làng
quý. Lời hát như lời nhắn nhủ tâm tình chan chứa yêu thương.
Lễ cầu an của đồng bào dân tộc Ba Na, tỉnh Kon Tum thu
hút sự quan tâm của đông đảo du khách thập phương.
Bài cúng trong các lễ hội được xếp vào dân ca bởi nó cũng
có chất văn học và âm nhạc. Dân tộc nào cũng có nhiều lễ hội và có những bài
cúng riêng cho từng lễ hội. Người Bana trong lao động sản xuất có những bài
cúng các giai đoạn làm rẫy, từ chọn đất đến hội mừng ăn cơm mới có năm, sáu lễ
cúng. Từ con người mới sinh ra đến khi nằm dưới đất, cũng lắm thứ lễ cúng. Và
các lễ hội có lẽ bài cúng đâm trâu là lớn hơn cả, có bài cúng các vị thần linh,
kể cả bài cúng tiễn biệt con trâu cũng khá độc đáo. Trong khi các già làng xướng
lời cúng thì dàn cồng chiêng vẫn diễn tấu, làm cho buổi lễ hội thêm long trọng
và thiêng liêng, đi sâu vào tiềm thức trong mỗi người.
Trong môi trường văn học dân gian, Khan hơ mon là một tác
phẩm văn học tổng hợp, nó thu hút hầu hết các giá trị văn hóa vốn có của dân tộc:
thơ ca, thần thoại, truyền thuyết, âm nhạc, diễn xướng, để thành một tác phẩm tự
sự bằng văn vần hay những làn điệu dài hơi lấy các nhân vật anh hùng làm trung
tâm để biểu đạt tư tưởng, ý nguyện, quan niệm sống của cộng đồng. Sử thi ra đời
sau thần thoại vào buổi bình minh của loài người, thời kỳ có giai cấp và tổ chức
xã hội. Khan hơ mon là một sinh hoạt văn hóa độc đáo được kể qua những ngữ điệu
trầm bổng lôi cuốn của những nghệ nhân Bana. Không gian trong sử thi Bana rất rộng,
không chỉ có núi cao, rừng rậm mà còn có cõi trời bao la, cõi âm huyền bí, có
sông, có biển, lại còn có cả những làng dưới đáy biển.
…Mỗi bước đi váy hé da đùi lóe sáng
làm da trời bớt xanh biển bớt sáng…
(Nàng Bia Bông trong sử
thi Dyông wi win)
Chắc chắn Khan hơ mon cổ xưa còn rất nhiều ở vùng đồng
bào Bana cư trú. Riêng ở Vĩnh Thạnh, sơ bộ sưu tầm cũng đã có 30 truyện, điển
hình là Dyông wi win, Dyông Knoa, Dyông Kman, Dăm Dyông, Bông Dyông, Dăm pen… Rất
tiếc chủ nhân của những bộ sử thi đó lại là những nghệ nhân dân gian đã quá
già, việc sống chết của họ chỉ còn tính từng ngày.
Lễ hội được tổ chức với ý nghĩa xua đuổi những điều xấu,
dịch bệnh khỏi buôn làng.
Hơ mon là những bài ca dài có tính chất tổng hợp, trong
đó chuyển tải một khối lượng lớn những thông tin về đời sống, tư tưởng tình cảm
của một cộng đồng người trong một thời gian dài. Xã hội Tây Nguyên khi các sử
thi ra đời đang ở giai đoạn cuối Công xã nguyên thủy, ý thức cộng đồng chi phối
mạnh mẽ số phận con người. Sử thi Bana ngoài chất anh hùng ca còn mang đậm chất
trữ tình cao cả.
Hãy xem cách Dyông cư xử với người anh phản trắc Dăm
Jong. Khi Dăm Jong bị giết chết, Dyông rất đau xót tự chặt vào chân tay mình và
xin Jang (Trời):
…Xin đừng hóa đỉa hóa giòi hóa vắt
bởi nó đối với tôi có ác cũng anh em
một, xin hóa nhà rông
cho dân làng có chỗ hội làng
hai, xin hóa nhà sàn
cho dân làng có chỗ ở
ba, xin hóa kho lúa
cho dân có chỗ chứa cái ăn…
Dân ca Bana là vốn văn hóa quý báu chúng ta cần giữ gìn
và phát huy. Chúng ta yêu thích dân ca, biết tôn trọng tài sản quý báu đó là thể
hiện lòng yêu người, yêu nước, lòng tự tôn dân tộc. Dân ca là con người, mà ai
đã yêu con người thì tất sẽ yêu dân ca. Và dân ca Bana cũng nằm trong tâm thức ấy.
Người Ba Na tổ chức lễ cầu an để xua đuổi tà ma.
Tìm hiểu một số giai điệu đặc trưng của dân ca Tây Nguyên
(Huỳnh Ngọc La Sơn)
Dân ca Tây nguyên đã có từ lâu đời trên mãnh đất Tây
nguyên bao la giàu đẹp. Về dân ca Tây nguyên, chúng ta thường được nghe những lời
ca, tiếng đàn trong thang âm ngũ cung:
Rất nhiều bài hát viết về Tây nguyên của các nhạc sĩ
trong và ngoài tỉnh như Tây nguyên bất khuất của Văn Ký, Hát mừng anh hùng Núp
của Trần Quý, Em là Hoa Pơ lang của Đức Minh… đều dựa trên thang âm ngũ cung này.
Thực ra, thang âm trên chỉ thuộc về dân ca của một số dân tộc thiểu số cư trú
lâu đời ở Tây nguyên mà đông nhất là Ja rai và Ba na.
Mỗi dân tộc thiểu số ở Tây nguyên đều có những thang âm
tiêu biểu cho dân nhạc của mình, chúng ta có thể điểm sơ qua một vài nét cơ bản
của các dân tộc Ê đê, Ba na, Ja rai.
* Dân ca Ja rai
Giai điệu của dân ca Ja rai thường nồng nàn, mạnh mẽ, sâu
đậm, thiết tha, vui buồn tột cùng, dễ đi sâu vào lòng người, thường được tiến
hành theo quãng 5 đúng đi xuống liền bậc (Sol-Fa-Mi-Do) Sự tiến hành của các
giai điệu có thể thay đổi nhưng tiết tấu thì ít khi thay đổi. Thí dụ bài Lên
nương, dân ca Ja rai:
Hay như bài Bơ hơ chim:
Dân ca Ja rai có các thể loại:
Hát nói gọi là Knhă
Hát có nhịp điệu gọi là Adoh
Hát giáo duyên gọi là Nhik
Hát kể trường ca gọi là Hri.
* Dân ca Ba na
Dân ca Ba na có tính chất thiết tha, nồng nàn nhưng không
bước đến tột cùng của tình cảm do dùng nhiều quãng 4 ( Si-Mi hay Mi-Si). Giai
điệu Ba na có tính bình ổn, ít có đột biến, thường là những khúc nhạc ngắn, nhịp
điệu đơn giản.. Dân ca Ba na cũng đem cảm giác lắng dịu, êm đềm.
Thang âm dân ca Ba na Rơ ngao còn được gọi tên là đon,
đen, ton, ten theo âm thanh phát ra của bộ chiêng.
Thí dụ bài Vui mùa mai vàng, dân ca Ba na:
Dân ca Ê đê
Dân ca Ê đê thường được trình bày ở điệu trưởng với thang
âm ngũ cung quen thuộc ( Re – Sol – La – Si – Re), những quãng nửa cung chỉ thỉnh
thoảng mới xuất hiện tạo nên sự biến đổi giai điệu một cách nhẹ nhàng nhưng rất
ấn tượng, kết hợp cả hai yếu tố trữ tình và mạnh mẽ, dàn trải và nhịp điệu. Dân
ca Ê đê có 2 thể hát chính là hát nói (Kứt) và hát có giai điệu (Muynh), sau
này có sự xuất hiện của điệu ei rei là sự biến dạng của lối hát có giai điệu
(hát đối đáp).
Thí dụ bài Chi Ri Ria, dân ca Ê đê:
Khi nắm bắt được những nét khái lược về đặc trưng của dân
ca Tây nguyên, việc lựa chọn và đưa vào phần dạy những bài hát địa phương tự chọn
hay giới thiệu dân ca Tây nguyên trong những buổi ngoại khóa của giáo viên sẽ
có sức thuyết phục hơn. Điều quan trọng là thông qua một bài dân ca cụ thể,
giáo viên Âm nhạc sẽ giới thiệu được cái hay, cái đẹp của một nền văn hóa đặc
trưng của một dân tộc.
Con Dúi
Tết Dúi của người Ba Na Jơ Lưng ở Kon Tum
Người Ba Na Jơ Lưng hay còn gọi là Ji Lâng là một nhánh của
người Ba Na sống tập trung chủ yếu ở xã Tân Lập và xã Đăk T’Re, huyện Kon Rẫy tỉnh
Kon Tum. Cũng như các dân tộc khác sống trên vùng Trường Sơn Tây Nguyên, với
tín ngưỡng đa thần, “vạn vật hữu linh” họ có rất nhiều lễ hội liên quan đến
vòng đời con người, cây trồng, vật nuôi. Et Đông (Tết Dúi) là một trong những lễ
hội đặc sắc như vậy của họ.
Lễ Et Đông thường được tổ chức 02 ngày vào đầu tháng Mười
dương lịch hàng năm, khi cây lúa bắt đầu trổ bông, ngậm hạt. Lễ hội là để cầu
mong một năm thu hoạch mùa màng thuận lợi, mọi gia đình trong cộng đồng làng được
ấm no, hạnh phúc, là ngày tổ tiên ông bà về thăm con cháu và là ngày gắn kết
thêm tình cảm của cả cộng đồng làng. Đặc biệt là chỉ sau khi ăn Tết Dúi, người
Ba Na Jơ Lưng mới được phép triển khai những việc lớn của gia đình, như làm nhà
mới, sửa nhà cũ, cưới hỏi, mua trâu, bò.v.v.
Lễ vật: Sau khi ngày lễ Et Đông được ấn định bởi hội đồng
già làng, mỗi gia đình khi đi rừng hay lên nương rẫy đều chú ý tìm cho được ít
nhất là một con Dúi, mang về làm sạch ruột, ướp muối, luộc chín rồi treo lên
giàn bếp để dành. Đồng thời họ cũng chuẩn bị một ghè rượu thật ngon. Đây là hai
lễ vật bắt buộc, không thể thiếu để dâng lên Yàng trong ngày lễ.
Mặc dù lễ Et Đông chỉ diễn ra có hai ngày đêm nhưng mọi
gia đình đều khẩn trương chuẩn bị từ nhiều ngày trước đó. Mọi thứ được chuẩn bị
công phu và cẩn thận.Con Dúi sau khi luộc chín, được cắm vào một que tre nhọn,
từ đầu đến đuôi được trang trí bằng những hạt cườm đủ màu sắc và bằng những vật
liệu cách điệu, tượng trưng cho nền sản xuất nông nghiệp, nương rẫy: Trên đầu
que được cột một ngọn đèn làm từ sáp ong, trên cây que còn có biểu tượng của
cây cung “để xua đuổi những điều không may mắn”, một ít bông gòn “cầu mong sự
phồn thịnh cho gia chủ” ngoài ra còn có những biểu tượng của bông lúa… Bên cạnh
đó, họ cũng chuẩn bị một cây cỏ tranh bỏ vào ống tre, một ít lá chuối tươi và một
ghè rượu ngon nhất, đựng trong chiếc ghè quý nhất.
Tiến trình lễ hội: Vừa sớm tinh mơ, người chủ nhà đã lấy
lễ vật chuẩn bị sẵn, thắp đèn sáp ong có cột con dúi lên cùng một chén cơm quay
vào góc bếp và cây cột giữa nhà – nơi thờ tổ tiên ông bà, khấn và mời về ăn Tết
Dúi. Sau đó, họ chia đều bát cơm cúng cùng với thịt dúi đã chuẩn bị sẵn cho tất
cả thành viên trong gia đình và mỗi thành viên cũng lấy một nắm cơm kèm một miếng
thịt dúi bỏ vào bát cơm của người chủ gia đình với hy vọng mọi người sẽ được khỏe
mạnh và gia đình được sung túc. Trước khi ăn, mỗi người lấy một hạt cơm để trên
đầu vì “hạt lúa chính là Mẹ lúa đã nuôi sống họ hàng ngày…”
Mặt trời vừa nhô lên phía đằng Đông là lúc một hồi trống
dài vang lên từ phía nhà rông báo hiệu chuẩn bị lễ hội Et Đông. Không ai bảo ai
như một thông lệ từ xưa, người chủ gia đình chọn một trẻ nhỏ nhanh nhẹn cùng
mình mang phẩm vật đã chuẩn bị tiến về nhà rông “theo quan niệm của người Jơ
Lưng, trẻ em cái miệng không biết nói những lời tục tĩu, cái đầu chưa nghĩ tới
những việc xằng bậy nên để trẻ mang vật thiêng dâng cúng các vị thần linh và
ông bà tổ tiên là hợp lẽ hơn cả”. Ngoài ra, đây còn là dịp để cho lũ trẻ hiểu
thêm, tiếp nhận những trao truyền của thế hệ đi trước về phong tục tập quán của
dân tộc mình.
Già làng là người đến sớm nhất, Ông đã nhanh nhẹn buộc
ghè rượu quý có cắm con Dúi của gia đình mình vào cây cột chính ở giữa nhà rông
và những hộ trong làng cứ theo thứ tự đã quy định, buộc xen kẽ phần lễ của mình
vào những cây cột được bố trí thành một hàng dài chính giữa nhà rông. Khi đặt
ghè rượu đồng thời họ cũng đặt vào dưới đáy ghè số hạt gạo tương ứng với số người
trong gia đình. Sau khi tan lễ, họ sẽ kiểm tra lại nếu thấy dư hoặc thiếu là
báo hiệu điềm không tốt cho gia đình trong năm đó.
Sau khi mọi người đã tề tựu đông đủ, già làng lại đánh
lên một hồi trống dài báo hiệu lễ hội bắt đầu. Mọi người đồng loạt mở nắp ghè
rượu, đổ nước vào bình. Già làng ngồi tại vị trí trung tâm nhà rông tay cầm cuộn
chỉ, Ông cột sợi chỉ từ ghè rượu của mình rồi từ đó mỗi nhà chuyền tay nhau kéo
sợi chỉ đến từng ghè rượu cũng như cây cột được dành riêng cho gia đình mình rồi
họ cẩn thận lấy lá chuối tươi bó sợi chỉ lại đề phòng lửa bén làm đứt chỉ. Điểm
cuối của dây được buộc vào cây nêu lớn của làng. Nó vừa là một sợi dây thông
linh chuyển thông điệp của chung dân làng tới các vị thần, tới ông bà tổ tiên,
vừa là sợi dây đoàn kết tạo nên sự bền vững, sẻ chia, gắn bó giữa các gia đình
trong cộng đồng làng.
Khi trang trí và chuẩn bị xong những lễ vật cần thiết,
già làng sẽ tiến hành cúng Yàng và ông bà tổ tiên.“Mời Yàng, ông bà tổ tiên xuống
xem thử rẫy nương có được tốt hay không, cầu mong tổ tiên phù hộ cho cây lúa trổ
bông đều, chắc hạt, phát triển khỏe mạnh như cây cỏ tranh trong rừng cũng như
xua đuổi các loài sâu bệnh phá hoại”.Tiếp đến, già làng làm một số nghi thức
như: Lấy rượu trong từng ghè đổ vào một ống nứa, đồng thời lấy một miếng da
trên đỉnh đầu của mỗi con dúi, đem xâu lại thành chuỗi rồi cột vào góc thiêng của
của nhà rông để dâng lên Yàng; Sau đó ông tiếp tục lấy rượu trong từng ghè đổ
vào một cái chén làm bằng lá chuối, mỗi người trong làng đều đến nhúng tay vào
chén rượu ấy và mong sự may mắn cũng như sức khỏe đến với mình. Kế đến, mọi gia
đình đồng loạt thắp sáng ngọn đèn sáp ong lên “để cho ông bà thấy đường mà về”
rồi lại tiếp tục khấn vái, cầu cho mọi nhà khỏe mạnh, no đủ, mùa màng bội thu…
Muốn biết được làng có bao nhiều nóc nhà, sự thịnh vượng
của làng này đến đâu và hoàn cảnh của từng gia đình như thế nào? Điều này căn cứ
vào hai vật: Ghè rượu và con Dúi của gia chủ. Làng có bao nhiêu nóc nhà, chắc
chắn sẽ có bấy nhiêu nghè rượu. Ghè rượu càng to, càng ngon, con Dúi càng lớn,
được trang trí càng đẹp chứng tỏ gia chủ là những người giàu có và ngược lại.
Sau nghi lễ cúng Yàng là phần hội bắt đầu. Già làng uống
cang rượu cần đầu tiên rồi đến các hộ gia đình, họ mời nhau nếm thử hết một lượt
rượu của các gia đình xem ai ủ rượu ngon nhất, bắt được con Dúi lớn nhất, chuẩn
bị món ăn đặc sắc nhất …ai nấy đều vui tươi, hồ hởi, họ vừa ăn uống vừa nói
chuyện mùa màng, con cái, chia sẻ kinh nghiệm canh tác, sản xuất, săn bắn…rồi họ
hát hò, đánh chiêng, diễn xướng những trò chơi dân gian, kể Khan, nhắc lại thời
ông bà tổ tiên đã từng dựng làng, khai đất …cứ như thế cuộc vui kéo dài hết đêm
bên ghè rượu cần ngây ngất hay bên bếp lửa bập bùng đến tận sáng hôm sau.
Tết Dúi dù thế nào cũng phải ăn được một miếng thịt Dúi.
Điều khá lạ là trong Et Đông, người ta không thịt vật nuôi trong gia đình, như
trâu, bò hay lợn gà.v.v. Hầu hết thực phẩm đều được lấy từ tự nhiên, như rau rừng,
cá suối, thú rừng… Gần trưa ngày hôm sau, mọi nhà xẻ thịt dúi chia đều cho tất
cả các thành viên trong cộng đồng và khách tham dự. Mọi người lại cùng ăn uống,
trao đổi với nhau về việc chuẩn bị Nhà Đầm để chứa lúa, về sửa soạn nhà cửa sau
khi thu hoạch vụ mùa và cùng bàn với nhau về dựng vợ gả chồng cho con cái.
Et Đông là thời khắc đánh dấu năm cũ đã hết. Năm mới với
những hi vọng mới, niềm vui mới bắt đầu. Trong Et Đông, mỗi người đều tự rũ bỏ
phiền não, mọi hiềm khích trong cuộc sống hàng ngày của năm cũ đều được hòa giải,
xóa bỏ.
Lễ hội Et Đông là một lễ hội độc đáo, lôi cuốn hiếm thấy
và mang tính triết lý nhân văn sâu sắc. Thông qua lễ hội hàng năm, người Ba Na
Jơ Lưng muốn giáo dục con cháu mình phải biết giữ gìn truyền thống, nhớ ơn tổ
tiên ông bà, đoàn kết thương yêu nhau và chăm chỉ làm ăn mới mong có cuộc sống ấm
no, hạnh phúc.
Lễ Hội Đâm Trâu của tộc Ba Na.
Lễ hội đâm trâu của người Bana
Lễ hội đâm trâu được người Bana gọi là x’trǎng, là một lễ
hội tế thần linh, ăn mừng chiến thắng, mừng mùa màng bội thu, mừng lễ hội mùa
xuân hay mừng các sự kiện trọng đại trong năm. Tuỳ theo hoàn cảnh ở từng địa
phương mà bà con tổ chức lễ đâm trâu.
Lễ đâm trâu thường được tổ chức vào khoảng thời gian từ
tháng Chạp cho đến tháng 3 âm lịch. Đó là là khi mùa màng thu hoạch xong, thóc
đã được đưa vào bồ, các gia đình được nghỉ ngơi. Người Bana tổ chức lễ đâm trâu
là để tạ ơn thần linh, đón mừng năm mới, cầu mong sức khỏe cho mọi người và cầu
chúc cho một năm mới mùa màng tươi tốt. Anh Đào Minh Ngọc, hướng dẫn viên Bảo
tàng dân tộc tỉnh Đắc Lắc, cho biết: “Lễ hội đâm trâu là lễ hội lớn linh thiêng
đối với người Bana. Lễ hội đâm trâu (còn gọi là lễ hiến sinh) phải trải qua nhiều
nghi lễ nhỏ với nhiều hình thức như: lễ cúng thần linh, nghi lễ uống rượu cần,
diễn tấu cồng chiêng và có bài khóc trâu. Lễ hội đâm trâu chỉ được dùng trong
cúng thần linh”.
Lễ đâm trâu thường diễn ra trong 3 ngày đêm. Để chuẩn bị
cho lễ đâm trâu, người Bana phải chuẩn bị hàng tháng trời. Những người đàn ông
khoẻ mạnh trong buôn được cử vào rừng chọn những cây gỗ Pơlang thẳng, đẹp nhất
để làm cột Gưn, chọn những cây mây vàng bóng để bện thành sợi dây vững chãi buộc
trâu trong ngày lễ. Thường thì lễ đâm trâu tế Giàng (Thần linh) được tổ chức
vào sáng sớm, lúc mặt trời vừa lên. Dân làng chọn một con trâu khỏe mạnh làm vật
hiến sinh, con trâu này được coi như vị sứ giả chuyển lời cầu khấn, ý nguyện của
bà con tới các vị thần. Vào ngày lễ, trâu được đưa đi tắm rửa sạch sẽ và cho ăn
uống no nê rồi đem buộc bằng dây mây vào cột Gưn mà người Ba Na gọi cây cột này
là gưng sakapô. Đây là một cây cột gỗ cao trên 5 mét, được trang trí hoa văn,
hoa rừng và cờ rất đẹp. Trên đỉnh cột thường đặt một biểu trưng hình chim Phượng
hoàng bằng gỗ. Khi con trâu được cột vào Gưng, làng cử đại diện gồm: già làng,
thanh niên nam, nữ, trẻ nhỏ dắt trâu đi vòng quanh cột vừa đi vừa nói những điều
tốt đẹp. Đây cũng là lúc bà con trong buôn tập trung lại và những nghi thức của
buổi lễ bắt đầu.
Chủ lễ là già làng, người có uy tín nhất cộng đồng đọc lời
khấn trời đất, cầu chúc mưa thuận gió hòa, dân làng khỏe mạnh, hoa trái mùa
màng tốt tươi… Khấn Giàng xong, con trai, con gái nhảy múa vòng tròn theo nhịp
cồng chiêng rộn rã, âm vang khắp núi rừng. Một người lớn tuổi được cử ra để mời
bà con và khách uống rượu cần thể hiện lòng hiếu khách. Tâm điểm của lễ hội là
các chàng trai trong buôn biểu diễn các màn võ truyền thống quanh cột Gưn buộc
trâu, trong khi các cô gái nối thành vòng xoang nhảy múa theo nhịp cồng chiêng.
Sau một đêm nhảy múa, ca hát, buôn cử 5 người đại diện gồm 3 thày cúng và 2 già
làng làm lễ hiến sinh đọc thần chú, xin dâng cúng trâu cho thần linh và cầu
nguyện những điều tốt đẹp còn mọi người ngồi nói chuyện, uống rượu cần.
Suốt đêm hôm ấy bà con dân làng thức với con trâu, khóc
thương con trâu, bày tỏ tình cảm của mình với con trâu bằng bài hát “Khóc
trâu”. Bài hát với lời : lâu nay trâu sống cùng với con người, giúp đỡ người
trong công việc đồng áng nặng nhọc, nhưng vì làng có việc trọng đại, cần đến
trâu để tạ ơn Giàng, mong trâu vui vẻ thực hiện nhiệm vụ của mình. Sau buổi lễ,
thịt trâu được chia đều cho tất cả mọi người, từ già đến trẻ nhỏ trong buôn và
cả khách mời, ai cũng có phần đem về nhà, mang may mắn cho mọi người. Già làng
Bok Ny dân tộc Bana ở tỉnh Kon tum, cho biết: “Lễ hội để cầu mong mưa thuận gió
hoà. Sau khi lễ hội xong cũng là là kêu gọi bà con phát huy tính tự lực tự cường,
cùng nhau làm ăn cần cù để cuộc sống buôn làn ngày càng phát triển đi lên”.
Lễ đâm trâu của người Bana cũng là dịp để con cháu ôn lại
truyền thống hào hùng của dân tộc, giúp lớp trẻ hình dung các bước thực hiện lễ
đâm trâu để lưu giữ truyền thống tổ tiên. Lễ hội đâm trâu góp phần giữ gìn nét
văn hóa dân gian của người Bana, làm phong phú thêm sắc thái văn hóa của dân tộc
Việt Nam.
Tết Nguyên Đán của người Ba Na không thể thiếu nghi thức
uống rượu cần.
Ấm cúng Tết Nguyên đán của người Ba Na, Kon Tum
Tết Nguyên đán của đồng bào Ba Na ở Kon Tum không cúng
bái cầu kỳ như người Kinh, nhưng cũng có những nghi lễ và khá ấm cúng trong
hương rượu cần…
Sinh sống trên mảnh đất Kon Tum nắng gió từ hàng trăm năm
trước, người Ba Na ăn Tết theo từng dịp mang ý nghĩa tâm linh hoặc theo vòng thời
gian, có các lễ hội chính như: Lễ hội mừng lúa mới, Lễ bỏ mả, Lễ nhà rông mới,…
Tết Nguyên đán (Chruh-kâl) là một trong những lễ hội
quan trọng, có ý nghĩa không chỉ với từng cá nhân mà còn với cả buôn làng, cộng
đồng.
Hằng năm gần đến ngày Tết Nguyên đán, bà con lại tất bật
dọn dẹp nhà cửa, lau chùi bàn ghế để chuẩn bị đón Tết. Trong đó, không thể thiếu
công việc gói bánh tét, mua bánh ngọt, mua thịt heo… Món ăn đặc sắc được người
Ba Na ưa thích nhất và thường được nhiều gia đình làm trong dịp Tết Nguyên đán
là cá, ếch, nhái mổ bỏ ruột hay thịt gia súc, gia cầm sau thui, xẻ thịt, chặt từng
khúc nhỏ, trộn với rau rừng, măng rừng, sả, tiêu (giã nhỏ) cho vào ống lô ô để
lên lửa than hồng nướng chín. Các món ăn khi đã được nướng, nấu chín, người phụ
nữ trải lá kbang (lá dầu) trên cái nia hay bàn ăn và đổ thức ăn từ ống lồ ô lên
trên lá, sau đó cùng nhau ăn, uống vui vẻ.
Chiều ngày 30 dân làng tập trung tại nhà rông uống rượu cần
và xem thanh niên trong làng tổ chức đánh bóng chuyền. Tối đến, dân làng tổ chức
văn nghệ, nối vòng xoang trong tiếng cồng chiêng ngân vang cho đến giao thừa.
Sáng mồng một Tết, sau khi thắp đèn, cắm hoa lên bàn thờ Chúa, hoa quả lên bàn
thờ gia tiên, dân làng kéo nhau đi lễ nhà thờ cầu xin mọi người trong gia đình
mạnh khỏe, đất nước thanh bình; mồng hai Tết cầu cho linh hồn người thân trong
gia đình siêu thoát; mồng ba Tết cầu mùa màng bội thu, gia đình có của ăn của để.
Ngày đầu năm mới, những người trong nhà dậy sớm để cùng
nhau sửa soạn mâm cỗ cúng Giàng. Mâm cỗ cúng khá đơn giản thường chỉ có con gà
trống luộc và ghe rượu cần, người cao tuổi trong nhà trang trọng thắp nén nhang
tạ ơn trời đất đã phù hộ cho gia đình một năm yên bình và cầu mong Giàng phù hộ
một năm mới nhiều may mắn. Sau đó, tập trung cả gia đình lại, cùng ăn bữa cơm đầu
năm rồi lần lượt đi thăm từng gia đình trong làng. Cũng như người Kinh, Tết
Nguyên đán của người Ba Na là thời gian để lũ trẻ vui chơi thỏa thích, người
già thăm hỏi nhau, còn các chàng trai cô gái thì có thời gian tìm hiểu, bộc lộ
tình cảm.
Sau khi đọc kinh và cầu nguyện, bà con về nhà hoặc đi
thăm nhau, chúc cho nhau mạnh khỏe. Bên ghè rượu cần, người già kể về những kỉ
niệm xa xưa, trai gái dần trở nên mạnh dạn, gần gũi nhau, chia sẻ tâm tình.
Càng về đêm, men say núi rừng càng thấm đẫm vào mỗi người, cả chủ và khách đều
không còn khoảng cách, trò chuyện rôm rả liên tục.
Mặc dù, đã có nhiều đổi thay nhưng người Ba Na vẫn lưu giữ
những nét truyền thống của dân tộc mình trong dịp Tết Nguyên đán: vẫn là hương
vị nồng say của rượu cần, vẫn là vị ngọt của thịt rừng, vị đậm đà của những món
ngon dân dã, và vẫn tiếng cồng chiêng vang vọng bản làng, báo hiệu một năm mới
với nhiều hi vọng, mừng vui…
Lễ hội Sơmă Kơcham.
Lễ hội Sơmă Kơcham của người Ba Na, Gia Lai
Sơmă Kơcham là lễ hội lớn nhất trong năm – mở đầu cho một
năm sản xuất và các lễ hội khác trong năm của người Ba Na ở Mơ H’ra, xã Kông Lơng
Khơng, huyện KBang (Gia Lai).
Theo quan niệm của người Ba Na, con người từ khi sinh ra
đến khi xuống mồ phải trải qua nhiều quá trình của mối quan hệ ứng xử; mối quan
hệ Người – Người (cá nhân với cá nhân), mối quan hệ cá nhân với cộng đồng; mối
quan hệ cá nhân, cộng đồng với đấng siêu nhiên – Yàng. Trong khi điều kiện sinh
tồn của các dận tộc còn gặp rất nhiều khó khăn phải chống chọi với thiên nhiên,
thú dữ, bệnh tật, đói nghèo, chết chóc… mà trình độ nhận thức khoa học của con
người hạn chế. Do đó, vòng đời người cũng gắn liền với hệ thống Lễ – Hội tương ứng
trong mỗi thời kỳ, tình huống cụ thể. Có Lễ Bỏ Mả (Pơ Thi), Lễ Ăn Trâu, Lễ hội mừng Nhà rông mới, Lễ cúng
Sơmă Kơcham.
Vào cuối tháng 2 đầu tháng 3 âm lịch, khi hoa pơ lang thắp
lên muôn vàn đốm lửa giữa bầu trời ngập tràn ánh nắng cũng là tháng đồng bào
dân tộc Ba Na tiến hành lễ hội Sơmă Kơcham… Sơmă– tiếng Ba Na nghĩa là cúng; kơcham là cái sân.
Để chuẩn bị cho lễ hội Sơmă Kơcham. Bà con phải dựng đàn tế lễ. Đàn lễ thoạt
trông đơn giản nhưng lại vô cùng cầu kỳ ở các chi tiết trang trí. Theo quan niệm
của người Ba Na, những người dựng đàn phải là những người “có con mắt, cái tay
của Yang cho” mới làm được việc này.
Cúng sân, hiểu theo nghĩa rộng là cúng đất làng. Đây là lễ
hội lớn nhất trong năm của người Ba Na mở đầu cho một năm sản xuất – đồng nghĩa
với một lễ hội đón mừng năm mới.
Lễ hội kéo dài suốt một ngày một đêm với mục đích thông
báo cho các vị thần linh biết các công việc sẽ làm trong năm, khấn cầu các vị
phù hộ cho mọi việc như sửa chữa nhà cũ, đốn cây làm rẫy… diễn ra suôn sẻ.
Đặc biệt là xin các vị “cho mưa xuống đúng lúc, nắng lên
đúng thời”; cây lúa “ban ngày bằng bụi sả, ban đêm bằng cây đa”; con người khỏe
mạnh, sinh sôi “như cây môn mọc”…
Lễ hội Sơmă Kơcham được
người Ba Na tổ chức rất long trọng. Vật hiến tế các vị thần linh là trâu, bò,
rượu cần, cơm lam được chuẩn bị rất cẩn thận. Sau phần lễ, tiệc ăn uống sẽ kéo
dài suốt đêm.
Không gian làng như vỡ ra bởi điệu chiêng tơnơl và những vòng xoang rậm rịch. Xưa kia
khi gặp phải các việc bất trắc như ốm đau, dịch bệnh, mất mùa… phải chuyển làng
đi nơi khác, người Ba Na cũng phải tiến hành Sơmă Kơcham. Bây giờ các làng Ba Na đều đã định cư.
Nhưng lễ hội Sơmă Kơcham, mọi làng vẫn giữ gần như nguyên vẹn.
Lễ hội cốm mới của người Bana.
Lễ hội ăn cốm mới của người Bana ở Bình Định
Lễ hội ăn cốm mới vừa mang tính chất gia đình – gia tộc –
dòng tộc lại vừa thể hiện tính cộng đồng cao, đậm nét, đó là một nét văn hóa đặc
trưng của người Bana (Bình Định).
Lễ hội ăn cốm lúa mới của người Ba na là một trong những
lễ hội lớn trong năm, mang ý nghĩa thiêng liêng giống như Tết Nguyên đán của
người Kinh.
Vào tháng 11 dương lịch, khi cây rừng trút lá, chuẩn bị
khoác lên mình chiếc áo màu xanh của chồi non, lộc biếc, khi tiếng chim tel báo
hiệu lúa trên rẫy đã chín vàng, đó cũng là lúc các làng người Bana tất bật chuẩn
bị lễ hội ăn cốm mới.
Khi những bông lúa vừa ngả vàng trên cánh đồng, người Ba
na đã chọn những bông lúa chắc hạt, đem về rang nóng lên và giã thật kỹ. Thế là
được mẻ cốm nóng giòn, thơm mùi lúa mới. Cốm này được cất kĩ, để dành cho lễ ăn
cốm lúa mới.
Trước ăn tết chính một hai ngày không khí trong các làng
kẻ vào người ra, kẻ về người đi thật nhộn nhịp, tiếng chào hỏi, tiếng cười nói
râm ran. Nhà nào nhà nấy chuẩn bị cho ngày ăn tết thật kỹ càng và chu đáo. Con
gà, con heo sẵn trong chuồng, thịt chim thú các loại phơi bày trên giàn bếp;
các loại ghè rượu ngon sắp đặt ngay ngắn quanh cột rượu gia đình… tất cả sẵn
sàng phục vụ cho ngày tết. Chị em mang những trái bầu to nhất ra đầu nguồn nước,
múc nước về dùng. Các món ăn truyền thống được nấu lên, thơm lừng. Lúc này, cốm
mới được mang ra, bày lên mâm cúng tổ tiên. Những ngày này, trong gia đình có
người ở xa thì cũng phải về, tề tựu đông đủ trong bữa cơm cuối năm này.
Ngày ăn cốm mới, người Ba na khoác vào bộ quần áo tươm tất
nhất. Trước khi tới nhà rông, từng gia đình cúng ở nhà mình. Lễ bắt buộc phải
có con gà, rượu, cơm mới, và cốm. Nhà nào khá thì mổ heo. Ông chủ nhà khấn khứa
xong, lấy móc (cốm) bỏ vào mâm, cả nhà cùng ăn. Hôm sau mới là ngày mời bà con.
Xong bữa cơm gia đình, cả nhà ra nhà rông. Nếu hôm đó nhà có khách, khách cũng
được mời ra nhà rông.
Trời vừa chạng vạng, trên nhà rông, già làng đánh hồi một
trống pơnưng, giục các gia đình cõng rượu ra tập hợp tại nhà rông. Nhà nào cũng
chọn ghè rượu ngon nhất, mang ra buộc ngay ngắn tại cột rượu của gia đình tại
nhà rông. Già làng đánh hồi trống thứ 2, khách được mời lên nhà rông. Già làng
cúng Giàng, cầu xin cho dân làng một năm mới bình an, khỏe mạnh, thóc lúa đầy
chòi, nhiều gà, nhiều heo. Chủ và khách cùng vít cong cần rượu trong tiếng trống
chiêng rộn ràng, qua nửa đêm đến gà gáy, tới tận khi cả chủ và khách đã ngà ngà
say. Chuỗi ngày vui tưng bừng khắp làng trên, xóm dưới bắt đầu.
Tiếng trống chiêng rộn ràng trong ngày lễ hội.
Sáng hôm sau, đoàn người gồm già làng dẫn đầu, theo sau
là những cô gái xinh đẹp được chọn lựa cõng gùi đến từng nhà chúc tết. Đội cồng,
đội chiêng cùng đi. Trẻ con nô nức theo sau.
Đến mỗi nhà, gia chủ sẽ bỏ vào gùi của các cô gái những đồ
ăn đã chuẩn bị trước, góp để tổ chức ăn tết chung tại nhà rông. Nhà có trứng gà
thì cho trứng gà, có thịt heo thì cho thịt heo, thịt khô, con chuột…
Nhà già làng là điểm dừng chân đầu tiên. Đến nhà nào già
làng cũng phải cúng làm phép, chúc gia đình mạnh khỏe, làm ăn phát đạt. Thời
gian đoàn người dừng lại ở mỗi nhà từ 15-20 phút, có khi tiếng, để chủ nhà chuốc
rượu. Người này vốc cả nắm cốm bỏ vào miệng người kia, trong tiếng reo hò của mọi
người xung quanh. Cốm càng rơi vãi, tiếng reo hò càng lớn. Người Ba na cho rằng,
dù cốm có vung vãi ra đầy nhà thì cũng không được quét dọn, quét là mất lộc: Ăn
cốm là phải ăn phung phí. Cứ bốc ăn. Nếu có thịt kho nữa càng ngon. Thế mới là
lễ lúa mới. Vung vãi ra nhà càng nhiều thì càng làm ăn được, để một ngày sau mới
quét. Ăn vãi, hy vọng mọi năm thức ăn cũng dư thừa như thế.
Đi hết một vòng các nhà trong làng, đoàn người mang đồ ăn
về tập trung tại nhà rông, làm cơm cúng Giàng. Nhà nào cũng muốn đoàn lưu lạ
nhà mình lâu một chút, nên có năm, 3 ngày mà đoàn người vẫn chưa đi hết lượt
nhà.
Từ nhà Rông về bây giờ cả chủ lẫn khách đã ngà ngà say. Một
ghè rượu to và ngon nhất được gia đình đem ra buộc vào cột rượu gia đình, gọi
là: Chơ mrưng sơ drô cúng mừng năm mới. Ông chủ nhà mời khách và chủ nhà đến cầm
cần rượu. Bây giờ gia đình mới đổ rượu mừng lễ hội, ông chủ làm thủ tục cúng,
chúc mừng năm mới, chúc mừng mọi người làm ăn no đủ, mạnh khỏe và hạnh phúc. Mọi
người ngồi quanh ghè rượu thay phiên uống, lần lượt từ người này đến người
khác, từ già cho đến người trẻ, ai không biết uống cũng phải uống phép vài ngụm;
trẻ con đang bú, người mẹ nhỏ một giọt nước rượu vào đầu ngón tay rồi xoa vào
trán bé, như vậy cũng gọi đã có uống rồi. Mọi người say sưa uống rượu, vừa uống
vừa hát hò, nói chuyện vui vẻ. Uống càng nhiều, men rượu càng thấm rồi say. Người
nào còn uống được thì uống, không uống được nữa thì ngủ. Uống nhạt ghè rượu
này, gia đình tiếp tục lấy ghè rượu khác. Uống rượu gia đình này chưa xong họ lại
được mời đến uống rượu tại gia đình khác, cứ như thế họ uống suốt ngày
Lễ hội ăn cốm lúa mới hay ăn Tết Nguyên đán là một trong
những lễ hội văn hóa truyền thống mang đậm nét đặt trưng của dân tộc Việt Nam
nói chung, cộng đồng người Bana nói riêng
Chính tay người con sẽ làm các món ăn ngon dâng lên cha mẹ
mình trong Ngày lễ tạ ơn.
Lễ tạ ơn cha mẹ của người Ba Na ở Kon Tum
Khi người con đã trưởng thành, có đủ điều kiện kinh tế sẽ
tổ chức “Lễ tạ ơn” để cảm ơn công sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Đây là một nét
đẹp trong đời sống văn hóa ứng xử của người Ba Na ở Kon Tum.
Lễ cúng tạ ơn cha mẹ, người Ba Na gọi là Khop bơnê kơ me
pa. Thường được tổ chức vào tiết nông nhàn (Ning nơng), sau lễ mừng lúa mới.
Đây là lễ của người con ruột đã có gia đình, có nhà riêng và làm ăn khấm khá. Sẽ
tự nguyện thông báo với dòng tộc, bố mẹ về việc muốn tổ chức ngày lễ để tạ ơn
cha mẹ đã sinh và nuôi dạy mình nên người.
Tùy vào điều kiện kinh tế của người con quyết định vật
cúng, nếu giàu có thì mổ bò còn nếu không thì một con heo lớn, một con gà và một
ghè rượu ngon. Mặc dù lễ Cúng tạ ơn cha mẹ chỉ gói gọn trong từng gia đình,
dòng tộc nhưng Lễ được tổ chức khá long trọng trong hai ngày.
Ngày đầu tiên là dành cho phần lễ trong gia đình thân thuộc,
còn ngày hôm sau mới mời bà con, anh em ở làng xa đến ăn uống chung vui. Vào
ngày đã được sự đồng ý của cha mẹ. Gia đình người con sẽ mang lễ vật đến, một
ghè rượu ngon đặt giữa nhà và bắt đầu mổ gà và heo (bò). Lấy tiết con vật cúng
bôi lên ghè rượu, lấy một phần gan sống của các con vật đem xâu vào cây tre rồi
cột trên miệng ghè để cúng ông bà tổ tiên và một phần đem ra ngoài sân cúng thần
linh. Gà, thịt heo được nướng, xâu vào cây tre rồi cùng cột vào cây nơi buộc
ghè rượu. Họ sẽ lấy một nhánh lá rừng nhúng vào trong ghè rượu cúng rồi phẩy rượu
lên cha mẹ và con.
Tiếp theo cha mẹ và con sẽ lần lượt khấn vái thần linh,
ông bà tổ tiên, mời họ về cùng hưởng và chứng kiến sự hiếu thuận của con cháu.
Cảm ơn họ đã ban cho sự giàu có, no đủ, gia đình bình yên, hạnh phúc… Sau đó
chính tay người con sẽ làm các món ăn ngon dâng lên cha mẹ mình, theo khẩu vị
mà cha mẹ mình thích ăn nhất. Gà sẽ được lóc xương nấu cháo; heo sẽ lấy phần thịt
thăn đem nướng. Sau khi đã chuẩn bị xong, người con mang đến dâng cho mẹ mình
ăn trước và mời mẹ uống cang rượu cần đầu tiên rồi mới đến cha, đồng thời cũng
nhắc lại thời thơ ấu đã được mẹ nuôi nấng, nhờ có dòng sữa mẹ nên mới lớn khôn
và nhờ cha đã dạy dỗ, chở che nên được như hôm nay. Người mẹ, cha nhận lời và
cũng cảm ơn con đã biết hiếu thuận, nhớ ơn sinh thành, cầu mong con sẽ không bị
đau ốm và làm ăn ngày càng tốt hơn nữa.
Sau khi đã chuẩn bị xong các món ăn, người con mang đến
dâng cho mẹ, mời mẹ uống cang rượu cần đầu tiên rồi mới đến cha.
Khi người mẹ nếm cang rượu cần, xem như đã nhận phần đền
đáp của con mình. Rượu được chuyền tiếp tục cho cha rồi đến người con, thông
thường con ruột sẽ uống trước rồi sau đó mới đến dâu hoặc rể. Sau đó là bà con
thân thuộc và sau cùng mới bà con làng xóm.
Cuộc vui kéo dài đến hết ngày hôm sau. Cứ mỗi khách đến họ
mang theo ít gạo, vài quả trứng gà đã luộc sẵn, một ít tiền để biếu gia chủ, cầu
mong mọi sự điều tốt đẹp, gia đình ngày càng sung túc hơn. Để góp vui với chủ
nhà, đàn ông mang theo lít rượu, phụ nữ chai nước ngọt hay đồ ăn mà nhà mình có
sẵn. Khi đến họ rót rượu hoặc nước ngọt ra mời chủ nhà và khách đến tham dự.
Gia chủ lại bày thức ăn ra và họ cùng ăn uống, hát hò, chúc tụng vui vẻ.
Đặc biệt, người Ba Na tổ chức lễ tạ ơn cha mẹ như nhau
cho hai bên nội, ngoại. Nếu bên nào ở gần con hơn thì sẽ được tổ chức trước và
bên kia cũng được chọn ngày để con cháu tạ ơn giống như vậy. Đều này nói lên sự
công bằng trong văn hóa ứng xử của người Ba Na trong mối quan hệ của gia đình
hai bên.
Lễ tạ ơn cha mẹ chính là một nét đẹp mang đậm tính truyền
thống và giá trị nhân văn sâu sắc. Lễ đã để lại dấu ấn tốt đẹp cho mỗi người
tham dự và có sức lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng các dân tộc./.
Trang phục Ba Na – Hơi thở đại ngàn
Sống giữa núi rừng bạt ngàn, những đường nét trong trang
phục của người Ba na đều như hòa quyện cùng với thiên nhiên, mang hơi thở đại
ngàn.
Khác với trang phục của nhiều dân tộc khác, trang phục của
người Ba na rất giản dị với những đường nét khỏe khoắn nhưng không kém phần
duyên dáng.
Đàn ông mặc áo chui đầu, cổ xẻ, hở ngực, cộc tay, đóng khố
hình chữ T. Phụ nữ mặc áo chui đầu, không xẻ cổ kết hợp với váy. Váy của phụ nữa
Ba Na không được may lại mà nó chỉ là một tấm vải đen được quấn quanh thân dưới.
Trong các ngày lễ, trang phục của người Ba na có phần sặc sỡ hơn.
Ngay từ thời xa xưa, người Ba na đã biết trồng bông, dệt
vải để tạo ra những tấm vải thổ cẩm bền đẹp. Không chỉ vậy, người Ba na còn biết
tạo ra mùi hương đặc biệt cho trang phục của mình. Sau khi quay tơi những sợi
bông ra, những người phụ nữ Ba Na lấy mật ong để làm mềm vải và tạo ra hương
thơm nhẹ nhàng không lẫn vào trang phục các dân tộc khác.
Trong trang phục, chính các họa tiết làm nên sự độc đáo.
Với lối tư duy đơn giản, các họa tiết trong trang phục của người Ba na là những
hình khối đối xứng mang tính biểu tượng cao. Họa tiết đối xứng phản ánh quan niệm
về vũ trụ, trời – đất, âm – dương lấy thiên nhiên làm hình mẫu. Mỗi tấm thổ cẩm
được làm ra là một bức tranh thiên nhiên thu nhỏ từ những nét cách điệu hình học.
Để làm nên sự độc đáo, tươi mới cho trang phục của mình,
người Ba Na luôn tỉ mẩn, khéo léo trong cách chọn và phối hợp màu sắc.
Trang phục nữ – Ba Na.
Họ nhuộm vải bằng màu mực của
các loại cây rừng. Mỗi màu sắc đều mang một ý nghĩa riêng, một tiếng nói riêng
. Màu đen được nhuộm bằng lá cây chàm, cây mô, thường là màu nền của mỗi tấm vải,
biểu hiện cho đất đai, cho sự nảy mầm từ mặt đất, độ che phủ của cây rừng mà suốt
cả cuộc đời con người phải gắn chặt với nó kể cả khi họ đã trút hơi thở cuối
cùng.
Theo quan niệm của người Ba
Na, màu đen là màu chủ đạo, gây ấn tượng mạnh mẽ về phong cách. Đây chính là những
hoa văn phản ánh đường nét văn hóa truyền thống và đời sống sinh hoạt hàng ngày
của người họ. Màu đỏ biểu hiện cho màu của lửa, của máu, tượng trưng cho sức sống,
sự vươn lên, niềm đam mê, tình yêu và khát vọng, được nhuộm bằng nhựa cây
Kxang, Kơ bai. Màu vàng biểu hiện cho ánh sáng mặt trời, sự kết hợp hài hòa giữa
con người và tự nhiên, được nhuộm bằng củ nghệ hay màu của cây Kmếch. Màu xanh
biểu hiện cho màu da trời, màu của cây lá được nhuộm bằng nhựa cây truông nhây,
cây Kpai…
Hoa văn trên thổ cẩm Ba na
chủ yếu chạy dọc theo tấm vải. Điểm nhấn cho các bộ trang phục chính là các đường
kẻ sọc. Những đường sọc ngang đỏ, trắng ở gấu áo của nam giới thể hiện sự mạnh
mẽ của những người đàn ông quanh năm sống với núi rừng. Trên áo của nữ giới có
sọc ở chỗ khuỷa tay, ở cổ, ngang ngực và gấu áo, váy có sọc thân và gấu thể hiện
được sự đơn giản trong con người và sự duyên dáng của họ.
Bên cạnh đó, với người Ba
na, các phụ kiện là một phần không thể thiếu để tô điểm cho các bộ trang phục
và có vai trò trừ tà ma. Các phụ kiện như: hoa tai, lược cài tóc, nhẫn ở 2- 3
ngón tay… Tục lệ đeo nhẫn bắt nguồn từ quan niệm: mỗi ngón tay đều mang một sức
mạnh. Ví như ngón cái tượng trưng cho cha, ngón giữa tượng trưng cho sức mạnh,
quyền lực, ngón nhẫn tượng trưng cho sức mạnh của tình yêu. Và, đeo nhiều nhẫn ở
các ngón tay là thể hiện sức mạnh tối cao.
Đặc biệt, các thiếu nữ Ba Na
còn có khăn đội đầu để làm duyên. Chiếc khăn có những hàng cúc trắng, chuỗi cườm
tua tủa, cúc bạc lung linh thể hiện được tình yêu thủy chung và niềm ước mơ hạnh
phúc.
Trải qua hàng trăm năm tồn tại
và phát triển, người Ba na vẫn giữ nguyên được những nét văn hóa trên trang phục
của mình. Để sau này, mỗi làn nhắc đến dan tộc Ba na, người ta sẽ không quên những
bộ trang phục độc đáo về họa tiết, ấn tượng về màu sắc và ngạc nhiên với ý
nghĩa của từng đường nét.
Nhà dài của tộc Ba Na.
“Nhà dài” – Kiến trúc độc đáo của người Ba na
Nhà sàn của người Ba na luôn được gọi bằng một tên gọi rất
độc đáo: nhà dài. Đó là những ngôi nhà không chỉ dài về mặt đo lường (độ dài trung bình 10m)
mà ở đó còn chứa đựng độ dài truyền thống của nhiều thế hệ sống chung trong
ngôi nhà.
Người Ba na sống chủ yếu
trên các vùng đồi núi, chính vì thế, những nét kiến trúc, chất liệu làm nhà
cuat họ luôn gắn liền với thiên nhiên, tiện lợi với cuộc sống hàng ngày. Nhà
sàn của người Ba na dựng cao, thẳng, cách mặt đất 1 đến 2 m. Toàn bộ nhà sàn được
làm bằng gỗ, tre, nứa hoặc lô ô.
Nhà sàn của đồng bào Ba na
có hình chữ nhật với chiều dài trung bình khoảng 10m. Mỗi căn nhà gồm 12 cây cột
được chia đều mỗi bên 6 cây để tạo nên sự vững chãi, cân bằng cho ngôi nhà. Để
làm cột, người Ba na thường chọn cây cà chít – một loại gỗ có vị đắng và cứng
chắc, ít mối ăn để đảm bảo độ bền cho khung nhà.
Cột nhà được đẽo tròn, gốc
có đường kính độ 30cm và ngọn khoảng 20cm được đục một lỗ hình vuông để kết nối
giữa cột và cây trính thượng. Cách trính thượng khoảng 2m là trính hạ. Trính
thượng và trính hạ được đẽo thành khối hình chữ nhật. Hai cây đà được gác lên
hai hàng trên đầu cây cột. Ở chính giữa trính thượng có một trụ lỏng để chống đỡ
đòn giông. Các rui gác lên, đòn giông xưa kia người ta dùng các loại cây tròn
thẳng, dài và cứng chắc. Ngày nay, người ta dùng cây xẻ vuông hoặc hình chữ nhật
với kích thước 5cm x 5cm hoặc 4cm x 6cm. Cây mè chọn từ cây tre hoặc lồ ô chẻ
ra. Với cách làm khéo léo, cẩn thận cộng với nguyên liệu tốt đã làm nên sự bền,
chắc của những ngôi nhà sàn Ba na.
Một ngôi nhà sàn bao giờ
cũng có hai mái chính với hai mái phụ ở hai đầu gọi là chái. Vách nhà chính thường
đan bằng nứa hoặc lồ ô. Có khi vách lại được trét bằng đất trộn với rơm. Nhà có
6 gian, nhưng chỉ một gian đầu cùng hoặc gian cuối có vách ngăn phòng dành cho
cha mẹ. Người Ba Na có tập quán xây nhà theo hướng nam, cửa chính ngay ở gian
giữa.
Nhà dài của tộc Ba Na.
Ở vùng người Bana còn có một loại phên dùng để lót sàn
nhà rất đặc biệt. Đó là những thỏi gỗ hoặc mảnh nứa dày nhỏ như đầu ngón chân cái được nối với
nhau thành tấm theo cách khớp từng mảnh lại, gác lên các thanh dầm gỗ sàn nhà.
Trên sàn có trải chiếu ở chỗ mời khách ngồi, hoặc chỗ nghỉ ngơi của chủ nhà…
Người Ba na rất mến khách.
Chính vì vậy, họ luôn dành gian giữa – một vị trí trang trọng cho nhũng người
khách ghé thắm nhà mình. Đối với khách quý, chủ nhà trải chiếc chiếu mới, mời
khách ngồi và mang một bầu nước đầy, mời khách uống. Bên cạnh đó, một bếp lửa để
cho khách sưởi ấm khi gặp những ngày giá lạnh.
Một phần quan trọng không thể
thiếu trong ngôi nhà dài của người Ba na chính là nhà chồ hnam pra. Nhà chồ hnam
pra có hai mái lợp bằng tranh hoặc ngói. Để bước lên nhà chồ người ta bắc một
chiếc cầu thang bằng gỗ hương, trắc cao to từ đất lên. Sàn nhà chồ làm bằng gỗ
ván to, dày. Đó là nơi dành cho phụ nữ giã gạo vào những buổi sáng sớm hoặc buổi
chiều tối đi làm về. Nhà chồ cũng là nơi gia đình ra ngồi chơi hóng mát trong
những đêm hè nóng nực.
Bên cạnh những nét độc đáo về
cách dựng nhà, các họa tiết trang trí ngôi nhà của người Ba na cũng rất đặc biệt.
Ở các bức vách, cửa, cầu thang… Đều có những nét chạm khắc của những người thợ
bản địa. Họa tiết thường là các hình khối mang tính tượng hình thể hiện cuộc sống
của họ hàng ngày và tính cách của gia chủ. Trong những ngôi nhà dài, có ba đến
bốn đời người Ba na sinh sống với nhau. Đó là sự gắn kết cộng đồng dân tộc.
Có thể nói, nhà dài không chỉ
là niềm tự hào của người Ba na về những nét kiến trúc ấn tượng mà còn là niềm từ
hào về một dân tộc luôn mang đậm giá trị văn hóa truyền thống cộng đồng.
Vi Đức Cường (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét