Dân tộc Cơ Ho ở Đà Lạt (Nông gia Cát)

Ở Đà Lạt, dân tộc Cơ Ho (còn viết Cơho, Kơho, K’Ho, Côhô,…), một trong những cư dân bản địa Lâm Đồng, có ba  nhóm tộc người: Chin, Srê  và  Lạch.
Tiếng Cơ Ho rất gần gũi với các ngôn ngữ  Mnông, Stiêng, Mạ,... thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Ba Na dòng Môn - Khmer, ngữ hệ Nam Á (austroasiatique). Tiếng Cơ Ho cũng như các ngôn ngữ cùng nhóm còn lư­u giữ những nét xư­a của một ngôn ngữ Đông Nam Á cổ. Tiếng Cơ Ho trong quá khứ là một ngôn ngữ vùng, được nhiều dân tộc khác cộng cư sử dụng, nhất là khi người Kinh lên Tây Nguyên còn ít. Dân tộc Cơ Ho Lạch do tiếp xúc với nhiều cư dân khác trong vùng nên nhiều người trước đây nói khá thành thạo các ngôn ngữ  Mnông, Chu Ru, Chăm.    
        
1. ĐỜI SỐNG KINH TẾ
1.1 Trồng trọt và chăn nuôi
Làm rẫy
Trong sinh hoạt kinh tế, nương rẫy chiếm vị trí chủ yếu trong đời sống dân tộc Cơ Ho Chin, còn dân tộc Cơ Ho Lạch thiên về làm ruộng và người Cơ Ho Srê thì canh tác cả hai phương thức.
Trong kinh tế rẫy của dân tộc Cơ Ho Chin là du canh du cư  hay xâm canh như người Chin Kon Klang (Chin Kon Ó) hoặc có thể là luân canh. Một đám rẫy chỉ canh tác trong một vài mùa, nếu sau đất còn màu mỡ thì làm thêm, thường vài ba năm đều tìm vùng đất mới để canh tác.
Đất đai canh tác thuộc quyền sở hữu của làng, việc bố trí thêm đất canh tác cho những hộ bị thiếu đất là thuộc quyền của làng. Chủ làng vừa là chủ đất vừa là chủ rừng.
Địa hình của nơi người Cơ Ho Srê ở Tà Nung sinh sống có dạng lòng chảo, chung quanh là núi đồi, giữa là đất bằng, ruộng, suối... Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc làm rẫy theo mô hình: định canh luân khoảnh. Kiểu canh tác này hiện nay vẫn còn tồn tại, bên người Pangtiêng chu kỳ của nó từ 10 đến 15 năm, đây là thời gian tương đối dài. Bình quân một cặp vợ chồng canh tác từ 0,5-1 ha. Năng suất thu hoạch tương đối cao. Một mẫu thu hoạch từ 800 đến 1.000 kg/ha (tương ứng gần 100 gùi).
Trong việc chọn rẫy, người Cơ Ho Srê thích đất đồi có độ dốc tương đối vì trong vùng đó, hạ cây xong là cây có thể lăn ngay xuống hố không cần phải dọn rẫy. Bên cạnh đó, lúc lúa lên, làm cỏ dễ dàng, không phải khom lưng mệt nhọc.
Rẫy được làm theo chu kỳ một năm, mỗi chu kỳ bắt đầu từ việc chọn rẫy cho đến khi thu hoạch.
Làm ruộng
Trong các loại hình kinh tế của người Cơ Ho Lạch và Cơ Ho Srê, trồng lúa nước được coi là hàng đầu. Ruộng Cơ Ho Lạch tập trung ở các thung lũng, ven suối và phụ thuộc vào thời tiết, nên chỉ canh tác một vụ trong năm. Trong quá khứ, người Cơ Ho Lạch chọn đất nơi sình lầy có sẵn nước, nhưng dần dần qua kinh nghiệm cho thấy những nơi đó năng suất thấp, và nhờ học hỏi kinh nghiệm thủy lợi của người Chu Ru, nên họ chuyển sang địa bàn cao hơn, làm ruộng bậc thang (srê are: ruộng cao). Người Cơ Ho Srê tự gọi mình là cau Kơho Srê (người Cơ Ho làm ruộng nước) và  người Cơ Ho Chin,  người  Cơ Ho Lạch còn gọi họ là cau phi dam (người vùng dưới).
Dân tộc Cơ Ho Srê có hai loại ruộng, sự phân biệt này dựa vào địa thế của ruộng đó là srê lơngơn nằm ở địa hình thấp, gần sông suối luôn luôn  có nước, srê đang nằm ở vị trí cao hơn, có nước khi nào mưa hoặc khi nào có nước lớn tháo vào.
Kỹ thuật canh tác thời xa x­ưa là canh tác thủy nậu : chọn vùng sình lầy để trồng lúa, suốt lúa bằng tay. Dần dần, các dụng cụ được cải tiến: cày gỗ, cuốc, chuyển lên cày sắt, dùng sức kéo của trâu và gặt lúa bằng liềm. Những kinh nghiệm xem thời tiết qua kỳ sinh tr­ưởng của động vật được truyền lại từ thời kỳ làm rẫy, cách xem sao, kỹ thuật làm đất (cày ải, phơi ải), làm thủy lợi t­ưới tiêu thuận tiện, ngâm giống trước khi sạ, dùng phân bón,… đã chứng tỏ sự thuần thục của họ trong việc trồng lúa nước ở một trình độ nhất định.

Chăn nuôi
Bổ sung cho nền kinh tế trồng trọt, dân tộc Cơ Ho chăn nuôi trâu, lợn, chó, dê, gà, vịt và sau này có bò. Trâu là gia súc đầu bảng trước đây, sau này trâu không chỉ để giết thịt trong những lễ hiến sinh, mà còn là sức kéo và vật định giá trong buôn bán. Trong khi đó bò được nuôi chỉ nhằm cung cấp thịt cho những bữa ăn và tiệc tùng thường nhật. Tất cả đều được thả rong trong một thời gian dài, mãi sau này do nhu cầu bảo vệ và sử dụng phân bón, người Cơ Ho đã sớm biết xây cất chuồng trại.
Nuôi ngựa là một đặc điểm độc đáo của người Cơ Ho Lạch. Có một thời thịnh vượng của chăn nuôi ngựa, bởi chúng trở thành phương tiện đi lại, chuyên chở thích hợp ở vùng đồi núi khúc khuỷu nhấp nhô, chúng còn là hàng hóa để buôn bán với các cư dân khác, có lúc đổi được ba bốn con trâu. Thời kỳ này bình quân mỗi gia đình có từ 5-10 con. Giống ngựa Cơ Ho Lạch khoẻ ít bệnh, dễ chữa trị. Người Cơ Ho Lạch cư­ỡi ngựa rất giỏi, nhờ ngựa họ đi buôn bán được khắp nơi quanh vùng, để lại những dấu chân "tròn" trên cao nguyên Lang Biang.
1.2   Các nghề phụ khác
Nghề rèn
Truyền thuyết dân tộc Cơ Ho Lạch giải thích người Cơ Ho Chin là thợ rèn giỏi, bởi vì bà Ka Tông chỉ truyền cho họ một nghề đó. Nhưng đó chỉ là sự giải thích sau này của các nghệ nhân dân gian Cơ Ho Lạch, chứ thực ra, chúng ta vẫn còn nghe được những truyền thuyết về lửa sắt được lấy ra từ Brah Ting (làng dưới đất) và nghề rèn của các nhóm cư dân Cơ Ho. Thợ rèn trong làng không mang tính chuyên nghiệp. Công việc bắt đầu vào lúc gần phát rẫy để sửa sang dụng cụ. Thợ rèn gồm có 3 người. Thợ cả đập, một thợ phụ kéo bễ và một mài công cụ. Nguyên liệu gồm có sắt. Trước kia họ thường trao đổi với người Raglai, Chu Ru để đổi lấy sắt, sau này lấy từ phế liệu cơ khí. Sản phẩm tự tạo gồm có xà gạc, dao nhỏ, rìu...
Cách thức tiến hành thủ công: nguyên liệu được đem ghè, cắt đập nhỏ, tạo dáng công cụ rồi lùi vào trong lò  than được làm đỏ bởi 2 ống do một người đứng thụt. Sản phẩm chưa hình thành được nung đỏ và đập, cắt cho đến khi hoàn thành công cụ, nhúng vào nước cho cứng lại và mài sắc. Trong nghề này họ không cho đàn bà goá, phụ nữ có thai lần đầu đi ngang qua nơi làm việc vì sợ hư hại sản phẩm giữa chừng.
Đan lát
Cùng với nghề rèn, nghề đan lát tre mây cũng được tiến hành song song do người đàn ông đảm nhận. Sản phẩm đan lát đáp ứng   nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Nguyên liệu để đan gồm có tre, lò ô, mây,... Công cụ trau vót gồm có dao nhỏ, xà gạc. Sản phẩm là các vật dụng (từ vách nhà, kho  lúa, kho ngô đến các đồ  dùng, các loại bẫy chim, cá, thú). Nghề đan lát trở hành chuẩn mực đánh giá  người con trai.
Đan lát ở người Cơ Ho Lạch được phân công khá rõ ràng: đàn ông đan gùi, nong, nia, đồ đựng thóc gạo, phụ nữ đan cói. Các sản phẩm cói như chiếu(bêl), mũ (đ­uôn), túi đựng thức ăn (plơ) được trao đổi và buôn bán khắp nơi. Người phụ nữ Cơ Ho Lạch được truyền dạy nghề từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Nghề dệt vải
Nhìn chung, nghề dệt vải dừng ở mức độ không chuyên và chỉ làm trong thời gian rảnh rỗi. Đấy cũng là một nghề mang tính phân công lao động theo giới tính và là điều kiện bắt buộc khi các cô gái chuẩn bị thành lập  gia đình. Nguyên liệu là bông kéo sợi. Cây bông được trồng, thu hái và chế biến. Nơi trồng là đất vườn hay ven suối.
Chế biến: Bông thu hái đem về phơi nắng cho cánh bung ra hết. Để làm bông tơi, sạch, người ta tách hột, tiếp đến dùng đũa xe bông thành từng lọn nhỏ. Lọn bông kéo ra một đầu nối vào trục xa quay để kéo sợi (lambong). Nó giống như công cụ kéo sợi của người Việt. Kéo xong sợi, người ta đem bỏ vào ngâm trong nồi có nếp đã nấu nhừ, mục đích làm cho sợi dệt được chắc, không đứt giữa chừng. Sợi ngâm xong được lấy ra phơi khô, sau đó được quấn vào cây quay để quấn lại thành cuộn chỉ lớn.
Nhuộm sợi: Màu xanh lấy lá cây tơrung đem giã nát. Ngâm trong ché khoảng một tuần, sau đó trộn nát để thêm hai ngày rồi lấy xát nhỏ. Nước lá đông lại thành cục nhỏ, keo khô. Lúc nhuộm lấy chất keo đó bỏ vào chén, đổ nước vào phải hoà tan và ngâm sợi trong hai ngày. Màu xanh dương ngâm với lá nước chát (chàm be), màu đỏ lấy loại cỏ họ dền, phơi khô, nấu, lọc rồi nhúng sợi vào. Màu vàng lấy củ nghệ dại không giống với nghệ thường ăn, đem giã nát ngâm chung với sợi.
Kỹ thuật dệt: Cách tạo thành khung dệt của người Cơ Ho cũng giống như người Mạ: hai ngón chân cái bám vào thanh giữ đầu khung, hai chân duỗi thẳng song song cuối khung dệt cố định được là nhờ đường dây nối vòng qua lưng.  Hoa văn được dệt theo ý thích của mỗi người: có nhiều hoa văn mô tả động, thực vật hay sản phẩm sáng tạo của con người. Hoa văn chấm trắng tượng trưng hình con sâu, chấm xanh tượng trưng quả dưa hấu hay tổng hợp nhiều màu vàng, xanh, đỏ thẫm, trắng để tạo nên hoa văn tượng trưng hình con công. Hoa văn có nhiều loại như mắt chim (mat sêm), con cào cào (srah), hầm chông (srông), cán xà gạc (ngkơr wiêh), bướm (tơplơp)…
 Buôn bán
Tuy là cư dân nông nghiệp, quen tự cung tự cấp, nhưng riêng người Cơ Ho Lạch sớm chấp nhận một nghề phụ mới: buôn bán, và coi đó là một nguồn thu nhập quan trọng, bù vào khoản thiếu hụt lớn do kinh tế sản xuất và chiếm đoạt không đáp ứng được. Do có quan hệ đặc biệt với cư dân buôn bán khác như­ Chăm, Chu Ru, người Cơ Ho Lạch sớm được độc quyền "lư­u thông phân phối" ở vùng cao nguyên Lang Biang, nhất là khi vương quốc Chămpa bị tan rã. Vì nhu cầu mua muối và sắt của các dân cư trong vùng đòi hỏi cấp bách, việc buôn bán của người Cơ Ho Lạch kéo dài về phía đông từ Đơn Dư­ơng xuống Phan Rang, Nha Trang và mở rộng sang phía tây bắc, tận Campuchia. Mùa khô, khi công việc đồng áng rảnh rỗi, họ tổ chức thành từng nhóm hai ba chục người, có khi cả gia đình với chiếc gùi trên vai. Một chuyến buôn có thể kéo dài từ 15 – 20 ngày, xuống biển họ mang những sản phẩm của cao nguyên: gạc nai, ngà voi, dây mây, nghệ, hạt ngo (thông), có khi lùa thêm trâu, ngựa để chuyên chở về với muối, sắt và đồ trang sức thích mắt. Với muối, sắt, họ có thể đổi với bà con cư dân lân cận gạo, vải, dụng cụ sản xuất và đổi với người Khmer chiêng ché.
Đóng vai trò thư­ơng nhân, người Cơ Ho Lạch hiểu rằng: "làm đất phải cuốc hết ngày, đi buôn phải giao du khắp chốn" và và họ thu được những "sàng khôn" của thiên hạ trên mỗi "đỗi đàng". Chính vì vậy, người dân tộc Cơ Ho Lạch đã có một thời được các cư dân láng giềng khen tặng về sự thông minh.
Cũng như các dân tộc khác sống kế cận, người dân tộc Cơ Ho Chin và người Cơ Ho Srê dùng thóc lúa, sản phẩm chăn, dệt, chăn nuôi để trao đổi lấy sắt, muối, áo quần. Người Cơ Ho Chin có khi thông qua người Lạch để trao đổi, nhưng đôi khi họ cũng trao đổi bằng những chuyến buôn xa.
1.3 Kinh tế chiếm đoạt
Săn bắt  
Đi săn vào những tháng đầu mùa mưa, đây là thời gian thuận lợi nhất trong việc tìm thú rừng, bởi vì đây là thời gian đốt rẫy, thú đi ăn, đi tìm những lộc non mới nhú. Vũ khí đi săn gồm có: ná, lao phóng (hiện tại họ dùng súng, đèn pin). Người ta săn tất cả các con thú, chỉ kiêng không ăn con cù lần (đogle)và rắn hổ mang bành. Người Cơ Ho Srê dùng các loại bẫy sau:
- Bẫy hầm (tàm tơrlong) để thú lọt xuống hố.
- Bẫy gài cây lớn (kơtit), thú đi đụng vướng cây ngã đập chết thú.
- Bẫy gài kiểu thòng lọng (dă): khi  thú vướng bẫy, lập tức cần bẫy bật lên, chân thú bị thắt gút và thú bị treo lơ lửng trên không.
Hình thức săn bắt tập thể hoạt động khá nhộn nhịp và phong phú. Chỉ huy thường là những người thợ săn giỏi, chủ của bầy chó săn. Tốp đi săn chia thành hai nhóm, nhóm săn đuổi cùng bầy chó dồn con thú chạy theo những tuyến rừng dự định. Trong tay cầm những lao nhọn, họ la hét, huýt chó, tiếng chó sủa vang động cả một góc rừng. Nhóm thứ hai gồm những thợ săn dũng cảm và kinh nghiệm đón sẵn ở những nơi dự kiến thú sẽ sẽ chạy qua để tiêu diệt con thú. Cũng có thể họ dò tìm được đ­ường đi ăn của con thú, đào hầm sâu cắm chông (rộng 4 x 5m,  sâu 1,5-2m) dồn đuổi thú sập hầm để bắt. Những hình thức này dùng để săn các thú lớn như trâu rừng, gấu, hổ, nai,... Kết quả được chia công bằng cho mọi thành viên tham gia: những người có công như người chỉ huy, chủ bầy chó, người đâm thú đầu tiên bao giờ cũng được phần hơn. Riêng đầu thú dành cho người chủ chốt như­ biểu hiện kính trọng, bởi vì nó lại được dùng để chiêu đãi mọi người sau một chuyến đi săn thành công. Người  giết thú   lấy hàm dưới xâu lại thành chuỗi treo sát vách nơi cửa ra vào, khi được 100 cái hàm, người đi săn giết heo để cúng mừng (dul rơhiêng). Đây là vinh hạnh lớn nhất của người đi săn về  thành tích của họ. Sản phẩm đi săn phải cúng trước, sau đó mới chia.
Đánh bắt cá
Đánh bắt cá được tiến hành ở các dòng suối vùng đầm nước (tơnau) bằng nhiều phương tiện khác nhau: đó (pàm), gậy chọc (chi chol), rổ xúc (đêr chŏka), vó (yŭ) và sau này có thêm lư­ới. Công việc này thường xuyên hơn săn bắt thú, phụ nữ và trẻ em đều tham gia được. Ngoài phương cách trên, người ta suốt cá bằng một thứ cây độc hay phương pháp bít đầu nguồn. Câu cá thường bằng một sợi dây không có lưỡi câu, mồi thường bắt con sâu nước - một loại thức thức ăn tôm cá rất thích.
Cá bắt về có thể ăn tươi, hay nướng, xào khô, riêng cá không được nấu với nấm vì sợ sét đánh.
 Hái lượm
Công việc hái l­ượm thức ăn rừng được "chuyên môn hóa" cho phụ nữ và trẻ em. Thức ăn rừng Lang Biang rất phong phú về rau (mơ biap, nsai mpàr, mbêr, chuối rừng, đọt mây, cà đắng và nhiều loại nấm...), cộng với rau v­ườn nên bữa ăn nào của người Cơ Ho cũng có món rau làm thức ăn chính. Họ chỉ kiêng không dám hái  trái xoài rừng sợ bị sét đánh và không ăn trái krit. Các sản phẩm hái lượm được nếu ít thì nấu ăn hết, còn nhiều thì họ phơi khô để dành. 
Nghề khai thác rừng trước hết là gỗ, tre để xây dựng nhà ở, chuồng trại, đan lát và chế tác các dụng cụ gia dụng. Nhiều loại lâm sản như mây, ngo, một số cây thuốc được khai thác thành sản phẩm trao đổi buôn bán. Y học dân tộc của người Cơ Ho từ thời xa xư­a cũng khá phong phú, đang bị mai một dần.
2. ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT
2.1 Nhà ở
Nhà ở của người Cơ Ho có hai dạng: nhà sàn và nhà sạp. Nhà sàn thường là của gia đình giầu có và khá giả trong buôn. Nhà lợp tranh hai mái uốn, có vách phên nghiêng ra ngoài nẹp tranh để chống cái lạnh. Trước đây các nhà sàn thường được dựng cao hơn để phòng thú dữ, phía trước cửa thường có cầu thang rộng hoặc bằng một cầu thang buộc dây hay một cây gỗ có khắc bậc. Người nghèo do ít có điều kiện chuẩn bị nên hay làm nhà sàn thấp hoặc nhà trệt có vách hoặc hai mái úp xuống đất. Nhà người dân tộc Cơ Ho Chin cao khoảng 2m, mái thường sụp xuống, phía đầu hồi có dạng hình cong như mu rùa.
Hình thức nhà dài của người dân tộc Cơ Ho (đại gia đình) sớm bị phá vụn, nhưng ch­ưa triệt để như­ người Ba Na. Kiểu nhà sạp, kiểu nhà một cửa ra vào, không gian trong nhà tối là một loại kiến trúc điển hình nhà ở của các cư dân Nam Tây Nguyên. Mặt bằng sinh hoạt trước đây không có vách ngăn, dù có nhiều hộ gia đình. Mỗi gia đình có thể có một bếp ăn phía sau ở vách đối diện với cửa là hàng ghè, giỏ đựng đồ đạc và bàn thờ cúng tổ tiên.
2.2 Thực phẩm
Thức ăn của người dân tộc Cơ Ho thường được chuẩn bị ngày 3 bữa. Cơm, canh trước kia đều được nấu trong ống nứa và sau đó mới có nồi đất, nồi đồng và gang thay thế. Các món được chế biến khô để tiện ăn bốc. Canh là một món rau được trộn với tấm thường bỏ thêm ớt, không có gia vị nào khác. Thịt cá cũng được kho, luộc hay nấu với cây chuối non. Món ăn đặc biệt là cháo chua được để trong những chiếc bầu lâu năm, có tác dụng như nước giải khát có men.
Thức uống là nước suối được mang về và đựng trong trái bầu, trong các ghè. Rượu cần (tơrnơm) là đặc sản của các cư dân Thư­ợng nói chung, cách chế biến tương đối giống nhau: từ các nguyên liệu như­ gạo, ngô, sắn... trộn với các men. Khác nhau chỉ là các nguyên liệu men được chế biến từ các cây rừng địa phương nên h­ương vị r­ượu cần mỗi nơi một khác. Thuốc lá cũng được trồng và chế biến.
2.3 Y phục
Dân tộc Cơ Ho Lạch ngày xưa ăn mặc rất đơn giản: tất cả đều cởi trần, đàn ông đóng khố, phụ nữ mặc váy ngắn. Khi vải còn khó tìm, họ đã dùng vỏ cây rừng ngâm cho hết nhựa, gấp đôi lại khoét cổ và ống tay khâu lại bằng dây mây để làm áo chống rét. Do điều kiện hiếm hoi nguyên liệu bông sợi, nghề dệt của người Cơ Ho Lạch vì vậy cũng không phát triển, họ phải mua lại vải của dân tộc Cơ Ho Chin, Mnông, Chăm sau này. Người đàn ông đóng một chiếc khố dài bằng ba sải tay (mỗi sải từ 50-60cm), rộng hơn một gang, có hoa văn theo dải dọc, quấn vòng quanh bụng, luồn qua háng, để cho hai đầu khố qua phía trước và phía sau mông. Người phụ nữ mặc váy hở quấn quanh người một vòng và dắt cạp. Váy của họ thường màu đen bố cục hình dải màu trắng viền dọc tấm vải. Khi trời lạnh, Người Cơ Ho Lạch quấn thêm một chiếc chăn (ùi).Vào thời xa xưa, người Cơ Ho Chin có kiểu áo chui đầu, áo làm bằng vỏ cây khoét thủng tay, đàn bà mặc váy. Riêng chủ làng và thầy cúng đội khăn kheo. Trong các buổi lễ cúng bái, trang sức của phụ nữ Cơ Ho Chin là chuỗi cườm đeo ở cổ. Riêng thiếu nữ chưa chồng thêm vòng đồng đeo ở cổ tay cổ chân đến 25 chiếc, đến khi lấy chồng thì tháo bớt ra. Đàn ông khi đã có vợ vòng đồng thường xuyên đeo ở cổ tay. Ngoài ra, người Cơ Ho Chin còn cà răng căng tai, nhuộm răng. Tục cà răng căng tai của người Cơ Ho Lạch đã được bỏ sớm nhất. Tất cả đều búi tóc lên đỉnh đầu dùng dây thắt.
3. ĐỜI SỐNG TINH THẦN
3.1 Tổ chức xã hội
Người Cơ Ho cho rằng có ít nhất ba thế giới: của người sống, người chết và thần linh. Vũ trụ được tạo dựng từ công trình của những người khổng lồ.
Buôn làng
Làng (bòn) là đơn vị cư trú của người Cơ Ho, giống như làng của người Việt hay buôn, plei của các dân tộc khác ở Tây Nguyên. Buôn  làng Thư­ợng  là một đơn vị cổ truyền của cư dân nông nghiệp phương Đông. Bị cách bức bởi núi rừng, buôn làng người Cơ Ho vận hành độc lập với những tập tục bình đẳng, thư­ơng yêu, đùm bọc lẫn nhau, giữ lại cho họ những phẩm chất tốt đẹp. Buôn là một tổ chức xã hội hay là một thế giới trong cảm quan của họ. Đó là một vùng cư trú, vùng canh tác rẫy hoặc ruộng, một vùng tự nhiên mà họ vẫn thường khai thác và xa hơn nữa là khu rừng thiêng nơi trú ngụ của thần linh, nơi ít ai được đặt chân đến và là biên viễn xa nhất của thế giới thu nhỏ mà họ đang sống.
Mỗi buôn đều có bộ máy tự quản riêng, đứng đầu trong bộ máy đó là chủ làng (kwang bòn) là người tài ba (cau jak: một người tài giỏi), nhưng quan trọng hơn là biết ăn nói, có tài hùng biện, biết kể chuyện hay và thông thạo lịch sử, phong tục, tập quán của dân tộc. Ông vừa là người ghi chép nền văn hóa dân tộc không có văn tự đó, vừa là người điều hành dân làng thực thi và viết tiếp những trang sử mới của dân tộc mình. Nhiệm vụ của chủ buôn là quản lý và điều hành công việc chung của buôn: chọn chia đất canh tác, dời làng, hòa giải, xử kiện, ghi nhớ ranh giới của buôn để tranh biện và bảo vệ lãnh thổ khi bị xâm chiếm; khi cần đứng ra tổ chức những cuộc chiến tranh giành đất.
Người được chọn làm kwang bòn đã được làng thử thách về mọi mặt, nên ít có trường hợp bãi miễn xảy ra.
Người thay mặt và kế tục chủ làng (kơnap kơnuơr) được chủ làng cùng với dân làng chọn lên lúc chủ làng tuổi quá cao. Khi chủ làng đau ốm hay đi xa thì người kế tự sẽ điều khiển mọi việc thay cho chủ làng và thay thế khi chủ làng mất đi. 
Thầy cúng (cau gru) là người có quyền chi phối sinh hoạt tín ngưỡng. Ông ta là người trực tiếp giao tiếp với thần linh để hỏi về tính mệnh của người bệnh. Việc trở thành thầy cúng do việc cho rằng đã nhặt được viên đá thiêng (lŭ sơnàr) rồi từ đó có bùa phép hay do ốm thập tử nhất sinh sau đó tỉnh lại thành một người hoàn toàn khác, có khả năng chữa được bệnh.
Thầy phù thủy (cau gru cơnang) cũng là người biết được cặn kẽ các phong tục tập quán, các câu chuyện cổ...
Thầy phù thủy, thầy cúng trở thành một lớp người quan trọng trong xã hội Cơ Ho, họ tham gia điều hành các kỳ tế lễ trong buôn làng. Họ vừa chữa bệnh bằng thuốc và bằng pháp thuật, dùng bùa phép để giải trừ ma quỷ, có phù chú cùng những vật cúng tế để giảm bớt những cơn thịnh nộ của thần linh, có bùa ngải để trừng phạt hay giúp đỡ những người khác chinh phục lẫn nhau, có khả năng phát hiện ra ma lai và khi cần họ đứng ra chịu sự thử thách trước thần linh và buôn làng.
Dòng họ
Dòng họ mẫu hệ là tập hợp cá nhân dựa theo tổ tiên chung tính theo dòng  mẹ. Trước đây, người Cơ Ho nói chung không có tên gọi cho từng dòng họ, vì họ sống chung vơi nhau trong một làng từ đời này sang đời khác. Việc xuất hiện tên các dòng họ,  theo một vài gia phả, chúng ta có thể nhận thấy là rất gần  thời kỳ hiện đại. Chẳng hạn, ở đất Tà Nung chỉ có dòng họ Dacat, sau đó dòng họ Dagut người Lạch ở Lạc Dương xuống và dòng họ Rơông từ Naha lên. Hai dòng họ này định cư tại đây và gia nhập vào cộng đồng người Cơ Ho Srê. Trải qua nhiều thế kỷ các dòng họ này trở thành người Cơ Ho Srê. Như vậy ở người Cơ Ho Srê chỉ có ở Tà Nung ba dòng họ, còn ở các vùng khác không thấy mang họ mà chỉ có sự phân biệt về giới tính: K’ chỉ nam (K’Tam, K’ Boih)  và Ka chỉ nữ (Ka Ri, Ka Reo). Tên dòng họ hiện nay chủ yếu là ở người Cơ Ho Lạch và người Cơ Ho Chin.
Gia đình
Gia đình người dân tộc Cơ Ho có hai loại: tiểu gia đình (gia đình một bếp: vợ chồng và con cái chư­a trư­ởng thành) và đại gia đình (gia đình của nhiều hộ và nhiều thế hệ). Mỗi gia đình đều có chủ nhà (bồ hiu). Các ông chủ nói trên (chủ làng, chủ họ, chủ nhà) thường thay mặt cộng đồng của mình để giải quyết các vấn đề xã hội. Trên thực chất họ chỉ là những người thừa hành một ý chí tập thể đã được bàn luận công khai và dân chủ trước mọi thành viên của cộng đồng.
4.2 Phong tục, tập quán
Tín ngưỡng
Sống trong cộng đồng và giữa thiên nhiên, con người phải tự đặt ra những cách ứng xử. Thiên nhiên đối với người Cơ Ho không phải vô tri (bởi vì đã có một thời con người cũng như­ muôn vật còn nói chuyện được với nhau như trong chuyện cổ tích vẫn kể). Bên cạnh con người vẫn còn một lực l­ượng siêu nhiên hằng tồn tại, trú ngụ trong những khu rừng hoang dại, trên những đỉnh núi cao rậm rạp và hiểm trở, trong những hang thẳm khe sâu. Đây là các Yàngvà cà (thần thánh và ma quỷ), một lực l­ượng chi phối cuộc sống thường nhật của con người. Cao nhất là thần Ndu - đấng tạo hóa của muôn loài, đến Thần Sét,  Thần Núi Lang Biang, Gần gũi hơn là  Thần Núi, Thần Nước, Thần Nhà, Thần Ghè,... Thậm chí có những dòng họ, những gia đình thờ những ông thần riêng mà theo họ đấy là những nơi thiêng liêng trong những giấc mơ họ thấy được (họ Cơ Ho Chin  ở Bơnơm Đơm Xu, Bon Yô ở thác Pàng Chạ (suối Đạ Sar), Liêng Hót ở Da Pla.
Phong tục
Các thành viên của buôn làng luôn luôn phải ý thức về trách nhiệm của mình: củng cố sự bền vững và đoàn kết của dòng họ, buôn làng; giữ gìn đất rừng, nguồn nước, những tài sản được coi là của chung, tuân thủ và thực hiện tự giác các luật tục truyền thống, trân trọng và chấp hành ý kiến của chủ họ, chủ làng. Họ có quyền bày tỏ ý kiến về công việc chung của buôn làng, tham gia lựa chọn người đứng đầu họ, làng buôn; khai thác và canh tác trên vùng đất của buôn ...
Tất cả những luật tục đó đều nhằm bảo vệ và hun đúc ý thức cộng đồng: chúng ta là con cháu của tổ tiên, chúng ta phải tôn trọng và giữ gìn di sản của họ.
Toà án phong tục được diễn ra quanh ché rư­ợu cần long trọng và trang nghiêm nhưng­ bao trùm lên trên hết thảy là một tình thư­ơng yêu đoàn kết:
"Việc tầm thường thì dùng ghè nhỏ
Việc lớn hơn dùng ghè cao hơn
Việc quan trọng thì giết heo dê
Anh em mình đứng về một phía”        
Hôn nhân
Hôn nhân ở dân tộc Cơ Ho theo chế độ mẫu hệ nên gọi là tục bắt chồng (kup bao), dù rằng để đến với hôn nhân người con trai vẫn thường chủ động làm quen với các cô gái. Có những quy định chung như­ anh em cùng dòng họ không lấy nhau (tính theo họ mẹ) và những quy định riêng như­ không lấy người dòng họ thù địch, bị nghi là ma lai. Như ở người Cơ Ho Lạch đã có một thời cấm kết hôn giữa những dòng họ nh­ư Liêng Hót với Đa Gút, Liêng Jrăng với Krajăng, Đa Gút với Pang Ting... hay ở dân tộc Cơ Ho Chin Konsor với Kơsar, Rơông với  Chin. Tốt nhất vẫn là:
"Mài rìu, mài xà gạc thì tìm đá cứng
Đặt bẫy bắt chim nên tìm lối mòn
Lấy vợ lấy chồng con cô con cậu"
"Bỏ ruộng thì đói
Cắt váy thì nghèo
Bỏ con cô con cậu thì thành đầy tớ"
Ngoài hình thức hôn nhân con cô con cậu, người Cơ Ho Srê còn có hình thức hôn nhân anh em chồng chị em vợ và hôn nhân con chú con bác tính theo dòng họ mẹ, chỉ cấm hôn nhân  con bạn dì, cùng dòng họ, giữa anh em ruột với nhau. Hôn nhân giữa những người cùng buôn cho đến nay vẫn còn phổ biến, nhưng ở dân tộc Cơ Ho Lạch, như­ chúng ta đã biết, do nhiều nguyên nhân, việc lấy người khác buôn, khác  dân tộc, được cởi mở và không bị cấm đoán ngặt nghèo như­ xư­a. Trường hợp vợ hoặc chồng bị chết, sau một năm người sống mới có quyền lập gia đình. Tục nối dây vẫn còn. Hội đồng già làng xét xử theo luật tục.
Người gây ra thiệt hại phải bồi thường. Người phạm tội bị phạt. Nếu không thực hiện, thì mọi tai họa xảy ra đối với làng, năm đó người này phải gánh chịu.
Tục c­ưới xin của dân tộc Cơ Ho Lạch cho đến nay càng trở nên đơn giản hơn cả: họ nhà gái cùng một người có tài ăn nói làm ông mai (cau dut) đến nhà trai để dạm hỏi. Nếu bị từ chối, họ sẽ đi lại nhiều lần cho đến khi đồng ý, và sau đó tiếp tục làm lễ vấn danh với bà con họ hàng nhà trai. Trong những lần như­ vậy người con gái cùng đi với gia đình: mọi sự trao đổi giữa hai gia đình đều diễn ra công khai trư­ớc mặt cô dâu và chú rể. Cuộc liên hoan đưa chú rể đến nhà gái gọi là lễ nhấc chân (pồ jơng) cũng rất gọn nhẹ. Mọi sự trao đổi quan trọng giữa hai họ là đám c­ưới lớn (tam lir) sau hai năm chung sống với nhau, khi họ đã kịp sinh con đẻ cái. Đám cư­ới bao giờ cũng vui vẻ, cặp vợ chồng hẹn thầm với nhau gắng sống như­ lời chúc của cha mẹ trước thần linh:
"Hôm nay cho con trai con gái cùng chung sống
Như­ trâu thấy nhà để về chuồng
Hãy ăn ở đến già
Hãy làm lụng cùng nhau
Sống đến bạc đầu
Tâm tình không chán
Đừng lang thang như con b­ướm với hoa
Sống cho đến khi lư­ng còng
Đi làm biết chỗ để về
Đi rẫy biết nơi mình ở
Đi rừng vẫn nhớ nhà..."
Sinh đẻ
Lúc mang thai, người phụ nữ Cơ Ho Chin kiêng thịt các loài khỉ, vượn, không ăn các con vật có mang bị chết. Người Cơ Ho Srê rất kiêng không ăn thịt con đỏ, nhím, tê tê vì sợ sinh khó, không xách vật nặng, gùi phải mang sau lưng ngay ngắn, không đi trỉa giùm cho người khác, tóc không buộc vì sợ đẻ khó.
Lúc sinh người ta cữ 7 ngày, dấu hiệu là sợi chỉ xanh cột nơi cửa không cho khách lạ vào nhà, chỉ có anh em, bà con, họ hàng mới vào được. Trong trường hợp vô ý khách vào nhà thì chủ nhà phun nước vào người của khách. Ngày sau đó người mẹ có thể mang đứa bé đi làm.
Ma chay
Gia đình có đám tang thường được sự giúp đỡ của cả làng, làng tổ chức đánh chiêng giúp vui và đưa người chết về nơi an nghỉ. Khi trong nhà có người chết, người nhà vào rừng hạ cây, lấy rìu khoét ruột để làm quan tài, việc chôn người chết là việc chung của dòng họ. Chủ nhà có thể nhờ bà con vào rừng chặt cây đóng quan tài và trang trí lên đó bằng hình vẽ sặc sỡ , người chết được bó vào cái chiếu có trang trí hoa văn trông rất đẹp (bêl bàng) và được đ­ưa về nghĩa địa (liêng bồc) phía tây - phía mặt trời đi nghỉ sau một chu kỳ chiếu sáng. Ngôi mộ chung của dòng họ được đặt chung với nghĩa địa của làng, người chết đầu luôn luôn quay về hướng đông, chân quay về hướng tây.
Sau khi chôn, ngày thứ ba họ đi thăm mộ và trồng các loại mía, chuối và các loại củ quanh mộ. Mộ của người chết đào vào ngày nắng thì lấy ché đựng nước tưới ướt, nắn sửa lại và sau đó đập vỡ ché. Dân tộc Cơ Ho Srê chia của cho người chết  nếu là đồ dùng thì phá hỏng, còn vật nuôi thì giết thịt để cúng cho  người chết. Vật dụng thân thiết của người chết được đem theo và bỏ trên mộ đục thủng. Người sống có vay thì trả cho người chết lúc đó. Có nơi còn tục chôn chung, người ta đưa người chết xuống hầm chung và làm mái che thành nhà mả (kùt bồc) và cái nhà nhỏ để cúng (dơrnan). Bảy ngày người ta mang các đồ vật bỏ vào ngôi nhà cúng đó.
Dân tộc Cơ Ho Srê quan niệm cái chết bất thường (chơt briêng: chết xấu) có thể là do ma lai trù yếm nên khi chôn xong họ cắm câu xung quanh mộ,  người có bùa ma lai sẽ biến thành con cóc, con ếch đến ăn phải lưỡi câu. Đến sáng người trong gia đình đến thăm mộ và họ sẽ giữ con vật đó lại, như thế sinh mạng của người làm ma lai sẽ ở trong tay họ. Đối với người chết bất đắc kỳ tử, người Cơ Ho Srê kiêng trong 8 ngày, trong 8 ngày đó họ không đi ra khỏi làng, khách không được đến khi thấy lá cắm ngoài nhà để báo hiệu là trong nhà có kiêng cữ, xác người chết bất đắc  kỳ tử chôn riêng chứ không chôn chung ở nghĩa địa. Chết xấu phải nhờ phù thuỷ đến cúng đuổi tà ma ra khỏi nhà.

 Nông Gia Cát (sưu tầm)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét