Bắc Giang là tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
Trong đó người dân tộc Tày có số lượng khá đông (đứng thứ ba sau người
dân tộc Kinh, người Nùng). Theo số liệu thống kê từ năm 2006, người dân tộc Tày
toàn tỉnh có khoảng gần 30.000 người chủ yếu sống tập trung ở các huyện Sơn Động,
Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế và một số xã miền núi ở các huyện khác. Người Tày ở
Bắc Giang đã có từ rất lâu đời, hình thành một nền văn hoá riêng với những bản
sắc đặc trưng. Trải qua nhiều biến đổi của lịch sử, xã hội, thời gian…nhưng những
bản sắc văn hoá của người dân tộc Tày đến nay vẫn còn lưu giữ, cần được bảo tồn.
Xin điểm qua một vài nét Văn hoá người dân tộc Tày trên địa
bàn tỉnh.
* Về tín ngưỡng.
Người dân tộc Tày rất coi trọng việc thờ cúng Tổ tiên, đây là việc thờ chính
trong nhà, nhằm giáo dục, nhắc nhở con, cháu luôn hướng về tổ tiên, cội nguồn,
giữ gìn truyền thống gia tộc, dòng họ. Bàn thờ tổ tiên được đặt ở gian chính giữa
nhà là nơi trang trọng nhất, cao ngang xà, được trang hoàng đẹp. Ngày mồng một,
ngày rằm âm lịch hàng tháng, gia đình thắp hương kèm theo hoa quả, rượu. Do
tính chất thiêng liêng, trang trọng như vậy, nên người Tày thường nghiêm cấm phụ
nữ nhất là con dâu, cháu dâu, những người lạ không được tới gần bàn thờ. Mỗi
khi gia đình có việc đại sự như: Làm nhà mới, cưới vợ, sinh con, tang lễ đều phải
cúng bái mời tổ tiên về chứng giám, ở gia đình người Tày, mỗi người con
dâu đều có một buồng riêng, đều có một bà mụ riêng cho con của mình. Có bao
nhiêu con dâu có trẻ con thì có bấy nhiêu bàn thờ mụ. Dân tôc Tày có quan niệm
về ông Công, ông Táo rất gần với người Kinh, họ coi ông Táo không chỉ là thần Bếp
mà còn là vị thần bảo vệ người và gia súc trong gia đình. Nơi thờ Táo quân rất
đơn giản, chỉ là một ống tre được dán giấy đỏ làm ống hương. Nếu gia đình có việc
đại sự, hoặc xảy ra những vụ việc như có người đau, ốm, gia súc bị bệnh dịch, mất
trộm thì cúng thần bếp để xin phù hộ. Hàng năm cứ đến ngày 30 tháng chạp âm lịch
là làm lễ tiễn đưa Táo quân về trời. Do đặc điểm cư trú ở vùng rừng núi, khí hậu
lạnh, sẵn củi rừng nên bếp của người Tày quanh năm không bao giờ tắt lửa. Dân
tôc Tày quan niệm bếp không có lửa thì không gặp được điều lành…
* Về tập tục cưới, hỏi.
Trong việc chọn vợ cho con trai (sau khi có sự tìm hiểu của con trai, con gái)
nếu được nhà gái chấp thuận, nhà trai chọn ngày giờ tốt để mang lễ vật sang nhà
gái gồm 4 con gà thiến, 4 ống gạo, 2 lít rượu, 2 cân muối. Nhà gái tiếp nhận lễ
vật thắp hương khấn tổ tiên rồi trao cho nhà trai tờ “Lục mệnh” (ghi đầy đủ
ngày, tháng, năm sinh của cô gái) có nơi còn ghi lá số của cô gái giao cho người
làm mối đem về trình nhà trai. Nếu lá số hợp nhau, người con trai mang lễ vật
sang nhà gái làm lễ ăn mừng.
Trước đây, từ ăn hỏi đến tổ chức lễ cưới thường kéo dài hàng năm (có nơi kéo
dài đến 2-3 năm) trong thời gian kéo dài, thử thách đó nếu vào dịp Lễ tết nhà
trai phải mang quà cho nhà gái gồm: 2 con gà thiến, 2 cái bánh trưng, 6 cái
bánh khảo, 2 gói chè. Chọn được ngày cưới, nhà trai chủ động báo tin để nhà gái
chuẩn bị. Đó là lễ “báo ngày”. Trước khi cưới, nhà trai phải nộp đồ sính lễ cho
nhà gái, trước đây có nơi thách cưới đến hàng tạ lợn và bạc trắng. Lễ cưới tổ
chức trong 2 ngày, nhà gái tổ chức hôm trước, nhà trai tổ chức hôm sau. Tại nhà
gái tổ chức lễ trình tổ tiên, hôm đó tất cả họ hàng đều có mặt để nhận mặt
chàng rể; coi như một nghi lễ kếp nạp thêm một thành viên mới. Để đáp từ chàng
rể phải lần lượt mời trầu cau, hoặc mời rượu từng người. Ngày hôm sau, nhà trai
cử người đưa cô gái về và mang theo lễ vật gồm: một đôi gà sống thiến, 2 chai
rượu, 2 ống gạo nếp cho nhà gái và xin được làm đám cưới. Có nơi vào lúc nửa
đêm, chàng trai đứng dưới sân chọc gậy lên chỗ cô gái ngủ để báo cho cô gái biết
về sự có mặt của mình, sau đó chàng trai lẻn vào phòng cô gái ngủ tới sáng, khi
tỉnh dậy chàng trai đến xin tạ lỗivới bố mẹ cô gái và xin chịu “hình phạt”.
Cũng hôm đó nhà trai lại đem lễ vật sang xin lỗi nhà gái và nộp phạt gồm rượu,
thịt lợn để làm lễ “rửa mặt” sau lễ này mới chính thức làm lễ cưới. Những nghi
lễ trên hiện nay đã thay đổi bớt được nhiều thủ tục rườm rà, lạc hậu. Tuy nhiên
ở một số khu vực có đồng bào dân tộc Tày vẫn tồn tại cơ bản các nghi lễ trên rất
cần sự nghiên cứu, chọn lọc để phát huy những nét đẹp, phù hợp, thay thế những
cái lạc hậu, không phù hợp.
* Về những ngày Lễ, Tết.
Cũng những dân tôc Kinh, dân tôc Tày coi Tết Nguyên đán là cái tết lớn nhất,
quan trọng nhất trong năm. Trước và trong ngày Tết, các bàn thờ được trang
hoàng dán giấy đỏ. Dân bản tổ chức cúng bái ở đình, miếu, tổ chức các trò chơi
dân gian như vật, chọi gà, đẩy gậy, kéo co…những hoạt động này chỉ tổ chức sau
ngày mồng một Tết. Trước đây, người Tày tổ chức ăn Tết Nguyên đán thường kéo
dài đến ngày 15 tháng giêng (đặc biệt có vùng còn hết tháng giêng). Việc kéo
dài như vậy rất lãng phí về thời gian lao động, mùa vụ. Đến nay cơ bản không
còn tình trạng như vậy nữa. Ngày Tết thứ hai của dân tôc Tày là tết mùng 5
tháng 5 âm lịch (Tết giết sâu bọ) có bánh do, thịt gà, lợn, rượu, hoa quả để
cúng tổ tiên. Ngày này cũng là ngày của những người thầy lang vào rừng lấy cây
làm thuốc chữa bệnh. Ngày Tết thứ ba của dân tôc Tày là Tết mùng 10 tháng 10,
có ý nghĩa tổng kết một năm lao động sản xuất, báo cáo với tổ tiên là đã thu hoạch
xong vụ mùa. Lễ vật gồm: Bánh dày, thịt gà, lợn, rượu để cầu mong cho sự yên ấm
của gia đình, con cháu.
Thành Trung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét