1. Vài Nét Về Dân Tộc La Ha
Dân số: 8.177 người (2009)
Ngôn Ngữ: thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai, (ngữ hệ Thái – Ka
Ðai)
Tên gọi khác: Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Poọng,
Xá Uống, Bủ Hà, Pụa.
Nhóm địa phương: La Ha cạn (Khlá Phlao), La Ha nước (La
Ha củng).
Địa bàn cư trú: Sơn La, Hà Nội, Đắk Nông
Địa bàn cư trú
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người La Ha ở
Việt Nam có dân số 8.177 người, cư trú tại 20 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố.
Tuyệt đại đa số người La Ha cư trú tập trung tại tỉnh Sơn La (8.107 người, chiếm
99,14% tổng số người La Ha tại Việt Nam). Ngoài ra người La Ha còn sinh sống tại
Hà Nội (thống kê được 13 người), Đắk Nông (12 người).
2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Người La Ha vừa làm nương, vừa làm ruộng. Đại bộ phận sống
bằng nghề nương rẫy; số khác làm ruộng kết hợp với nương rẫy… Từ góc độ canh
tác có thể chia làm ba loại: Du canh, du cư hoàn toàn sống bằng nghề nương rẫy;
bán định canh hay du canh, bán định cư, làm nương rẫy kết hợp với làm ít ruộng
nước; định canh, định cư, làm ruộng nước kết hợp với làm ít nương rẫy. Hiện
nay, xu hướng canh tác theo hướng định canh được đồng bào chú ý phát triển…
Cây lương thực chính là lúa nếp. Ngoài ra, đồng bào còn trồng ngô, khoai, sắn…
Cây công nghiệp có cây bông.Kỹ thuật canh tác chủ yếu dùng gậy chọc lỗ đối với
nương du canh du cư; dùng cuốc, cày đối với nương bằng và ruộng nước.
2.2. Chăn nuôi
Người La Ha chăn nuôi gia súc, gia cầm.Gia súc có trâu,
bò, ngựa, lợn, chó, mèo; gia cầm nuôi nhiều nhất là gà, vịt. Con trâu được sử
dụng vào việc cày ruộng nước, kéo gỗ; ngựa để thồ hàng. Các loại gia súc, gia
cầm khác được đồng bào nuôi chủ yếu nhằm phục vụ cho nhu cầu cúng bái, kết
hợp ăn thịt; cũng có thể làm vật trao đổi, mua bán.
2.3. Khai thác tự nhiên
Sinh sống ở vùng núi rừng Tây Bắc, người La Ha cũng như
nhiều dân tộc khác, rất chú ý khai thác những sản vật quý trong tự nhiên để phục
vụ cho đời sống của mình. Đồng bào thu hái lâm thổ sản như măng rừng, nấm
hương, mộc nhĩ, các loại hoa quả dại, rau rừng để ăn; thu hái sa nhân, thảo quả
dùng làm thuốc hoặc gia vị; thu hái các cây gỗ tốt trên rừng để làm nhà, làm
công cụ sản xuất, lấy gỗ thường để làm củi. Đồng bào La Ha tổ chức săn bắn thú
rừng vừa nhằm mục đích bảo vệ mùa màng, vừa kiếm thịt ăn. Người La Ha sinh sống
ở lưu vực sông Đà thường hay đánh bắt cá sông. Phương tiện đánh bắt cá chủ yếu
là chài, lưới; dùng thuyền đi theo dòng sông tổ chức quây bắt cá. Đồng bào cũng
dùng câu, mò bắt cá bằng tay. Có thể nói rằng, việc khai thác tự nhiên thật sự
có giá trị đối với người La Ha khi đời sống sản xuất tự túc, tự cấp của họ còn
nhiều khó khăn. Những sản vật thu hái từ tự nhiên đã thật sự tham gia vào bữa
ăn hàng ngày của đồng bào, chí ít cũng là củi đun và nước uống, nước sinh hoạt
hàng ngày.
2.4. Ngành nghề thủ công
Người La Ha có một số ngành nghề thủ công được cư dân địa
phương đánh giá tốt như nghề đan lát và nghề dệt vải. Đồng bào La Ha đan gùi để
đi nương, đi hái rau rừng, vận chuyển đồ tương đối nhẹ, đan những chiếc giỏ đi
ra sông suối bắt cá, đan những chiếc “dậu” có nắp đậy để đựng những đồ gia dụng.
Điều được đánh giá tốt là họ hay đan các hoa văn trên đồ đan làm thành đồ thủ
công mỹ nghệ và được sử dụng rộng rãi trong đời sống thường ngày của đồng bào.
Theo các tư liệu cổ viết, người La Ha trước đây không làm vải, không dệt vải,
mà họ lấy bông, thóc hay đồ đan lát đổi lấy váy, áo, vải do người Thái dệt để
làm y phục của dân tộc mình. Tuy nhiên trên thực tế những năm cuối thế kỷ XX,
người La Ha có nghề dệt tương đối phát triển. Họ trồng bông, quay sa, kéo sợi,
dệt vải, tự túc vải mặc cho nhu cầu gia đình. Kỹ thuật dệt cũng khá tinh xảo.
Nghề đan lát (Ảnh minh họa)
Người La Ha có nghề làm thuyền độc mộc khá độc đáo.Thời
xưa, sống du canh, du cư, họ chưa biết làm thuyền.Sau cuộc vận động định canh,
định cư, cuộc sống ổn định, người La Ha mới làm thuyền. Người La Ha có cách chọn
cây làm thuyền độc đáo. Sau khi chọn được cây to ưng ý ở trong rừng, họ dán ba
miếng cơm thành hàng dọc vào cây đã được chọn, rồi mới chặt hạ cây.Nếu cây đổ
về phía không dán cơm là tốt, ngược lại là xấu. Họ quan niệm hàng cơm dán trên
cây là biểu hiện cuộc sống con người, hàng cơm bị đè thì người chết, thuyền làm
bằng cây đó sẽ bị lật. Những làng cư trú gần sông nước, mỗi làng có dăm bảy thuyền
neo ở bờ sông, những người không phải chủ thuyền cũng có thể sử dụng để làm
phương tiện qua sông, nhưng không được đưa thuyền đi xa, đi vài ngày phục vụ việc
riêng của gia đình mình.
2.5. Trao đổi, mua bán
Trong vùng người La Ha cư trú, việc trao đổi buôn bán còn
ít phát triển.Tuy nhiên việc trao đổi hàng mua bán hàng cũng có xuất hiện.
Đồng bào cần bán một số hàng lâm sản, đồ đan lát, bông,
thóc để đổi với người Thái lấy vải, váy, áo, khăn phiêu, hoặc lấy tiền mua muối
ăn, mua dầu thắp, mua kim khâu…
3. Văn hoá Truyền Thống
3.1. Làng
Làng của dân tộc La Ha được dựng ở chân núi, sườn đồi,
nơi thuận lợi cho sản xuất và có nước cho sinh hoạt.Bản người La Ha có khoảng
mười, mười lăm nhà. Bản làm ăn định canh, định cư thì tương đối ổn định, cố định
một nơi; còn bản làm ăn lối du canh, du cư thì hay thay đổi. Nhiều nơi đồng
bào La Ha sinh sống trong bản xen kẽ với dân tộc khác.Thường thường, các bản của
người La Ha không có những sinh hoạt văn hoá riêng, mà họ tham gia sinh hoạt
cùng dân tộc Thái.
Trước đây, người đứng đầu bản là Khun cai. Khun cai có
hai người giúp việc là khun tang và khun téng. Những người này đều do dân cử
ra.
3.2. Nhà ở
Dân tộc La Ha sinh sống ở nhà sàn. Nhà sàn được cấu trúc
theo hai kiểu: kiểu nhà ở tạm và kiểu nhà ở lâu năm.
Kiểu nhà ở tạm thời là kiểu nhà của cư dân làm nương rẫy,
sống du canh, du cư. Họ dựng nhà sống tạm bợ từ một năm đến ba năm, sau đó bỏ
nhà du cư theo nương. Loại nhà này thường làm đơn giản, dùng cột tre hoặc gỗ có
sẵn ngoãm để đặt xà, quả giang; sàn nhà ở cũng làm bằng tre theo hình hàm lợn –
khang mậu; cũng có loại dầu hồi lợp vuông góc như kiểu nhà người Kinh, gọi là
thụp lặt. Nhà không cửa sổ, nơi dành cho thờ tổ tiên được quây kín, có buồng
riêng dành cho vợ chồng chủ nhà.Kiểu nhà này thường tồn tại vài ba năm là bắt đầụ
có hiện tượng hư hỏng, xiêu vẹo, phải chống thêm cột để giữ cho khỏi đổ. Người
La Ha có phong tục, nếu chồng vắng nhà qua đêm, lúc đi ngủ vợ phải buộc cửa bên
trong, đề phòng người đàn ông khác “nhầm” chỗ lẻn vào buồng.
Kiểu nhà ở lâu năm là của nhóm cư dân sống bán định cư hoặc
định canh, định cư.Kiểu nhà này được dựng bằng gỗ tốt; khi làm nhà từ khâu chọn
gỗ, dựng cột đến khâu làm mái đều được tính toán cẩn thận về mặt kỹ thuật và
tính đến yếu tố tâm linh chặt chẽ.Kiểu nhà ở lâu năm thường phải gia công ở nhiều
khâu như làm cột, làm sàn, đảm bảo cho kết cấu vững chãi, có thể tồn tại hàng
chục năm.Kiểu nhà ở lâu năm của người La Ha ở Thuận Châu thường có kiểu mái hai
đầu hồi trông như kiểu nhà người Thái Đen trong vùng cùng cư.
Bố trí trong nhà ở của người La Ha ở Than Uyên còn giữ được
nhiều nét đặc sắc của dân tộc.Trong nhà thường chia làm hai phần. Một phần dành
cho tiếp khách và phần kia dành cho chủ nhà. Phần dành cho khách chiếm từ 1/2 đến
2/3 diện tích của ngôi nhà ở. Giữa phần chủ và khách có ngăn vách hoặc chỉ có một
cái cột, dưới chân cột buộc hũ rượu cần để cúng.
Lễ lên nhà mới của người La Ha: Nhà mới làm xong phải làm
lễ lên nhà mới, xong mới được vào ở. Lễ lên nhà mới thường được tổ chức vào buối
chiều tối. Ngày lên nhà mới đã được chọn sẵn, thông thường là ngày chẵn, không
trùng với ngày mất của tổ tiên và ngày sinh của những thành viên trong gia
đình. Nghi lễ vào nhà mới gồm: đuổi ma xấu, đặt hoóng, gọi ma bếp. Để thực hiện
nghi lễ, chủ nhà bố trí bốn nam giới khoẻ mạnh đứng ở bốn góc nhà: một người
giữ một con mèo trong tay, một người cầm một quả bí đao (bí xanh), một người cầm
chiếc ninh đồng (mỏ nứng) và một chiếc chõ (hoỏng), một người cầm một cái chài
(he). Ở cửa bên xịch – nơi đặt nước rửa chân, chủ nhà cầm một chiếc nỏ, dưới
sân là ông cậu – lúng ta, cùng tất cả mọi người trong gia đình, mỗi người mang
theo một thứ đồ đạc của gia đình chuẩn bị đưa lên nhà mới..Chủ nhà mổ gà, cắt
tiết cho chảy xuống bốn góc nhà và bốn gốc bếp; đồng thời mở chum rượu cần
khiêng đi bốn góc nhà, vừa đi vừa gụi rượu chảy xuống bốn góc nhà và bốn góc bếp.
Kết thúc nghi lễ vào nhà mới, chủ nhà mời cơm thân mật mọi người tham gia nghi
lễ và họ hàng, làng xóm cùng chung vui với gia đình.
3.3.Y phục, trang sức
Trước đây, đàn ông người La Ha búi tóc sau gáy, nhưng
ngày nay chỉ còn vài cụ già và thầy cúng giữ cách búi tóc này.Đàn bà La Ha mặc
giống người Thái Đen; một số nơi đeo thêm tạp dề để giữ váy khỏi bẩn, khoác
lên lưng khi rét. Phụ nữ chưa chồng búi tóc sau gáy, có chồng thì búi tóc trên
đỉnh đầu, đội khăn phiêu không có hoa văn, mặc áo hàng cúc bướm bằng bạc và váy
ống mặc luồn qua đầu, cạp được túm lại và giắt phần thừa sang một bên. Có nơi từ
em bé đến bà cụ già đều chỉ có một cách búi duy nhất là búi trên đỉnh đầu, hoặc
do ảnh hưởng của người Thái Trắng chỉ vấn tóc trần, hoặc búi tóc sau gáy không
phân biệt có chồng hay chưa có chồng. Phụ nữ La Ha đeo vòng cổ bằng bạc, khuyên
tai và nhuộm răng đen như một hình thức trang điểm.
3.4. Ẩm thực
Người La Ha ăn cơm nếp nương là chính; chế biến cơm nếp.
Thức ăn có rau xanh, thịt, cá. Có nhiều cách chế biến cá, thịt: nướng, làm
chua, dùng gia vị lấy từ tự nhiên.Đồng bào cũng hay ăn món rau chấm muối, tỏi, ớt.
Khi ăn, cả gia đình ngồi quanh mâm đan lũng tre.
Mâm cơm đạm bạc của người La Ha (Ảnh minh họa)
Nhìn chung, mới thoáng qua ta thấy cách chế biến cơm, thức
ăn và thưởng thức bữa ăn có nhiều nét tương đồng với người Thái, nhưng quan
sát kĩ thấy người La Ha có nét riêng của dân tộc mình. Đó là trong khi mọi
người ăn, cần xin phép chủ nhà ra ngoài, họ gác hai chiếc đũa chéo nhau lên miệng
bát.Nếu đã xin rồi mà chủ nhà vẫn cố nài thì đặt hai chiếc đũa so le nhau và
lẳng lặng bỏ đi là được.
Người La Ha xưa có tục ăn trầu.
3.5. Phương tiện vận chuyển
Dùng ngựa để thồ hang (Ảnh sưu tầm)
Người La Ha có cách vận chuyển vật nặng nhẹ khác
nhau.Thông thường hàng ngày chỉ vận chuyển các thứ đồ nhẹ như vận chuyển nương
về nhà, đồng bào sử dụng chiếc gùi hai dây đeo qua vai; cần vận chuyển nhiều đồ
với trọng lượng nặng, người La Ha dùng ngựa thồ.Khi vận chuyển gỗ làm nhà từ
trong rừng về, họ thường dùng trâu kéo.Cũng có khi người La Ha sử dụng thuyền để
vận chuyển hàng hoá.
3.6. Ngôn ngữ
Tiếng nói: Tiếng nói của dân tộc La Ha thuộc hệ ngôn ngữ
Thá nhóm Thái phía tây… Người La Ha vẫn giữ được tiếng nói của dân tộc mình.
Tuy nhiên do sống xen kẽ với dân tộc Thái đã lâu năm và tiếng Thái đã trở thành
tiếng nói của vùng Tây Bắc, cho nên, người La Ha rất thông thạo tiếng nói của
dân tộc Thái. Trong giao tiếp xã hội, với các dân tộc khác, người La Ha dùng tiếng
Thái.
Chữ viết: Người La Ha có chữ viết riêng của dân tộc mình.
Trước đây, họ học và sử dụng chữ Thái.Nay học sử dụng chữ Quốc ngữ.
3.7. Tín ngưỡng tôn giáo
Người La Ha tin vào “vạn vật hữu linh”. Mọi vật đều có
linh hồn theo quan niệm của người La Ha, con người có tám linh hồn.Hồn chủ trên
đỉnh đầu, các hồn khác ở mồm, mũi, cằm và tứ chi. Khi các hồn khỏi xác là người
chết.Lúc đó hồn biến thành ma – kdạ. Người chết bình thường (chết già có con
cháu chôn cất theo đúng thủ tục tang ma của người La Ha) thì hồn người chết biến
thành ma nhà kdạ lổn, hoặc biến thành ma coi nương – kdạ bổng. Ngược lại, nếu
chết không bình thường tuỳ từng trường hợp mà hồn biến thành nhiều loại ma khác
nhau. Trẻ em chết hồn biến thành ma ranh – kdạ cởt, kẻ chết vì tình ái hồn biến
thành kdạ plái, chết do bị đâm chém hồn biến thành kdạ Ikông. Người La Hể tin
có ma rừng – kdạ pá, ma suối – kdạ ủng. Ma rừng và ma suối cũng có được cúng
bái theo định kì, nếu không được cúng bái chúng cũng gây| khó khăn cho cuộc sống
con người, gây hạn hán, hoặc lụt lội làm thiệt hại cho mùa màng, cho gia súc,
gia cầm.
Người La Ha có tục thờ ma nhà hay còn gọi là tục thờ cha.
Khi cha chết, con trai cả phá liếp thờ ma nhà, sau đó dựng lại liếp mới. Việc
làn này có ý là động tác đuổi ma ông bà đi ra ở nương, rồi sau đó đón ma cha về
thờ. Nếu mẹ chết trước cha, con trai cả đập vào vách trên đầu để báo hiệu cho
tổ tiên biết đón sang “thế giới bên kia”. Khi cúng ma nương, người La Ha có tục
kiêng nói tiếng Thái, vì xưa kia, tổ tiên người La Ha sử dụng rộng rãi tiếng
nói này.Nhưng khi cúng ma nhà, thì có thể nói tiếng Thái như bình thường.
Lễ le đắm phịng man – tạ ơn cha mẹ nuôi nấng: Buổi sáng
hôm tổ chức lễ, chủ nhà đồ một chõ xôi trắng và một chõ xôi cẩm; đồ các con
vật đã sấy khô, khoai sọ, bầu bí và một vài thứ rau trồng trên nương. Sau đó
bà chủ nhà gói các thứ đó bằng lá chuối tươi, đặt các gói lên đặt trên bàn thờ
cúng cha. Với tư cách là nàng dâu hầu hạ cha, mẹ, bà chủ nhẹ nhàng lui lại vài
bước, ngồi xổm cạnh đó một lúc, rồi mâm cúng ra bếp.Đồng bào gọi đây là lễ “tạ
ơn cha mẹ”. Đến gần ra, chủ nhà bắt một con lợn to đến đặt trước nơi thờ cha mẹ.
Người La Ha ủng dùng lợn nái, người La Ha Khlá Phlạo dùng lợn bột. Sau đó, người
ta mổ lợn và luộc chín ngay cạnh gian thờ.Lúc này xôi cẩm đang được bà chủ nhà
đồ. Khi xôi sắp chín, bà chủ đem hạt thóc, hạt bông vãi ra khắp nhà, tượng
trưng cho việc gieo giống ở trên nương.Xôi cẩm được đổ ra mâm, mọi người xô lại
tranh nhau lấy ăn, tỏ ý chúc cho vụ sản xuất năm mới của chủ nhà được kết quả.
3.8. Lễ Hội
Lễ hội pang a nun ban – cúng dâng hoa măng: Thực chất đây
là lễ tạ ơn thầy cúng đã chữa khỏi bệnh cho bệnh nhân và theo phong tục của
người La Ha thì bệnh nhân có bổn phận làm lễ tạ ơn, cho trọn tình trọn nghĩa. Lễ
được tổ chức tại nhà thầy cúng vào mùa măng sắp nhú lên khỏi mặt đất.Lúc này
măng rất đắng – ngon. Lễ vật cúng có: lợn, gà, vịt, sóc, lau má, măng các loại.
Đặc biệt trong lễ này người La Ha dùng gỗ tươi tạc thành
một số vật cúng mang tính biểu tượng. Người ta đẽo một con ngựa gỗ (chiều dài
80cm, cao 60cm), đặt ở cạnh cây móc và cây chuối. Người La Ha quan niệm sống đi
bằng ngựa, chết cũng đi bằng ngựa.Có ngựa thì hồn từ đất mới lên trời được.Cây
móc (lãm la) được lấy cả rễ, lá, cao khoảng 4m, tượng trưng cho con trâu đen. Đồng
bào quan niệm, móc chết hoá thành trâu đen, phục vụ cày bừa ruộng, nương. Cây
chuối rừng (lăm tốc) được đồng bào lấy đoạn giữa, bóc bớt bẹ ngoài. Đồng bào
quan niệm cây chuối tượng trưng cho con trâu trắng. Trâu đen, trắng là bạn nhà
nông. Ngoài những con vật tượng trưng nêu ở trên, đồng hào La Ha còn làm một số
con vật mang tính biểu tượng khác.Đồng bào dùng nan tre tết thành con ve sầu.
Con ve báo mùa làm lễ của thầy mo. Các con ve kết thành ba chùm, mỗi chùm
chín con; dùng gỗ đổi thành hai con chim gáy. Hai con chim này là biểu tượng
cho tình yêu nam nữ. Người ta dùng gỗ làm hai cày, hai bừa, hai khẩu súng (dài
lm),hai gươm (dài 0,60m). Vũ khí là để bảo vệ bản làng; dùng gỗ làm hai cái
dương vật dài 0,40m, bán kính 100mm cùng nhiều loại măng rừng khác.
3.9. Gia đình, dòng họ
Trong mỗi ngôi nhà ở là nơi sinh sống của một gia
đình.Gia đình người La Ha là tiểu gia đình phụ hệ.Trong gia đình, con cái sinh
ra lấy họ cha, thuộc về người của dòng họ cha. Người vợ trong gia đình hoàn
toàn phụ thuộc vào chồng. Sau khi làm đầy đủ các nghi thức của hôn lễ người vợ
phải đổi họ theo họ chồng. Chồng chết, người đàn bà góa không được trở lại nhà
bố mẹ đẻ hoặc họ hàng của nhà mình, mà phải ở với con trai lớn hoặc họ hàng
nhà chồng. Đàn bà góa có thể được tự do đi bước nữa, nhưng lúc đó chồng kế phải
làm lễ thu cơipoọng báo cưới, nhà chồng đã chết hoặc họ hàng của nhà chồng cũ.
Xong lễ thu cơi poọng, phụ nữ góa thuộc về người chồng kế. Đồng bào La Ha quan
niệm rằng, đời người chỉ có một vợ (một chồng) chính thức. Sau khi chết về
thế giới bên kia, vợ chồng lại tiếp tục đoàn tụ. Chính vì vậy, nếu chưa làm
đủ các nghi thức hôn lễ với bữa cơm thu ma phu – bữa cơm lớn để thành vợ chồng
chính thức, thì con trai phải làm tiếp để bố mẹ được đoàn tụ ở thế giới bên
kia êm đẹp. Theo quan niệm của dân tộc, tài sản trong nhà là của chồng, người
vợ không có quyền tự ý sử dụng. Khi chồng chết tài sản đó thuộc về quyền các
con trai. Nếu không có con trai thừa kế, thì những người anh em chồng được toàn
quyền xử lý.
3.10. Tục lệ cưới xin
Đám cưới người La Ha
Đã từ lâu, người La Ha theo chế độ hôn nhân ngoại hôn
dòng tộc và hôn nhân một vợ, một chồng bền vững. Người cùng dòng tộc không được
lấy nhau. Khi lớn lên, nam nữ được tự do tìm hiểu, chọn bạn đời. Nhưng muốn để
thành vợ, thành chồng, phải tuân theo ý kiến của cha mẹ. Sau khi tìm hiểu,
trai gái đồng ý làm vợ, làm chồng nhau, con trai về nhà thưa với bố mẹ. Nhà
trai cử người đi dạm hỏi.Lễ vật dạm hỏi thường có trầu. Nhà gái nhận trầu và
đưa áo cô gái cho nhà trai để xem bói. Nhà gái còn chia trầu cho họ hàng để hỏi
ý kiến.Nếu họ hàng đồng ý thì nhận trầu, còn nếu không đồng ý thì trả lại trầu.Theo
tục lệ, nếu trong 5 ngày nhà gái không trả lại trầu cho nhà trai là nhà gái đã
chấp thuận.Sau 10 ngày được nhà gái chấp thuận, người con trai đến nhà gái, bắt
đầu thời gian ở rể làm công cho bố mẹ vợ.Thời gian ở rể thường là từ 4 đến 8
năm. Ngoài ra, người con trai còn phải nộp ba lạng rưỡi bạc trắng, gọi là tiền.
Hết hạn ở rể và nộp đủ số bạc trắng trên, mới được tổ chức lễ cưới chính thức.
Sau lễ cưới này, cô dâu được đón về nhà chồng, đổi họ theo họ chồng và không
được quay về ở nhà bố mẹ đẻ nữa, kể cả trường hợp chồng chết. Người vợ góa có
thể đi bước nữa, nhưng phải làm lễ cơipoọng – báo cưới (xem thêm trong mục Gia
đình, dòng họ).
3.11. Tập quán tang ma
Đồng bào La Ha đem chôn người chết chứ không hoả táng như
người Thái Đen. Để cho người chết có thể “sống” ở thế giới bên kia, người La
Ha chôn thóc và tiền theo thi hài. Tiền và thóc được rải lót từ phần đầu, hai
cánh tay và hai gót chân – nơi hồn trú ngụ khi người còn sống, khi liệm. Liệm
xong, thi hài được đặt lên chõng – soóng và khiêng ra đến huyệt mới bỏ vào quan
tài. Quan tài là một thân gỗ to được đục lồng ở giữa rồi cho thi hài vào.Hạ
huyệt xong, mỗi người đã đưa ra bỏ vội nắm đất xuống mặt quan tài rồi lấp.Mộ
người chết được đắp hình vuông, cao ngang đầu gói, xung quanh đào rãnh để thoát
nước.Ở phía đầu và phía chân mộ có đường ra vào qua rãnh.Người La Ha dựng nhà
mồ ngay sau khi chôn. Những của cải chia cho người chết: giỏ xôi, mâm cơm, điếu
cày, hòm đựng quần áo, chăn và đệm… được đặt cạnh nhà mồ, Bốn góc nhà mồ được cắm
bốn lá cờ là những vuông vải trắng, vàng, Xung quanh mộ được rào lại, chỉ mở một
lối vào ở phía chân người chết.
Khi người đưa tang trở về đến sân nhà, phải khua cối giã
gạo để đuổi ma, rồi mới được bước lên thang vào nhà. Người La Ha đưa hồn người
chết theo dọc sông Đà về Hát Lảng ở phía nam thị xã Lai Châu. Từ Hát Lảng, người
La Ha cũng đưa hồn người chết xuôi theo sông Đà, còn người La Ha Phlạo đưa hồn
người chết lên rừng.
3.12. Văn nghệ dân gian
Điệu múa Cánh còn mùa xuân ( Ảnh sưu tầm)
Từ thực tế cộng cư lâu đời với người Thái, người La Ha,
người không chỉ sử dụng thành thạo tiếng Thái, mà còn hiểu biết và thành thạo
ca, múa, nhạc dân gian Thái.Đó là các điệu múa xoè, làn điệu khắp các nhạc cụ
khác.Hiện nay trong dân tộc La Ha chỉ còn một sô các cụ già biết hát các làn
điệu dân ca La Ha bằng tiếng Thái hoặc tiếng La Ha.
Xưa kia, người La Ha có lịch khắc trên xương sườn trâu.
Tương truyền rằng, thời xa xưa người La Ha có quyển sách lịch để xem ngày,
nhưng vô tình bị một con trâu ăn mất. Người La Ha quyết định mổ con trâu kia để
lấy lại quyển sách trên, nhưng không thấy sách trong bụng trâu, nên đã quyết định
lấy xương sườn nó để khắc lịch.
Người La Ha khắc trên xương sườn trâu 30 vạch, mỗi vạch
tương ứng với một ngày trong tháng.Trên lịch đó còn khắc những ngày tốt, xấu
khác nhau. Nhí có lịch khắc trên xương sườn trâu, đồng bào La Ha tính được các
ngày tốt, xấu để tính ngày tiến hành các việc hệ trọng và dự đoán thời tiết.
Ví Đức Hồi (sưu
tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét