Dân tộc La Ha còn có tên gọi khác: Xá
Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Pojoong, Xá Uống, Bủ Hà, Pụa. Dân số 1400
người, gồm 2 nhóm thứ cấp riêng biệt: người La Ha cạn và người La Ha nước. Người
La Ha cư trú ở các tỉnh: Sơn La, Lai Châu, Lào Cai và Yên Bái. Người La Ha có
nhiều phong tục tập quán, đáng kể phải kể đến tục ở rể trong hôn nhân.
Người La Ha có mặt sớm ở miền Tây Bắc nước ta. Theo những
tài liệu chữ Thái cổ, vào thế kỷ XI, XII khi người Thái Ðen thiên di tới vùng đất
này, họ đã gặp tổ tiên của người La Ha hiện nay. Chính vì vậy, khi làm lễ cúng
Mường, người Thái vẫn còn tục đặt cỗ “trâu trắng” để tế thần ¡m Poi - một thủ
lĩnh nổi tiếng của người La Ha vào đầu thế kỷ XI.
Người La Ha sống theo làng bản là Khun cai, hai người
giúp việc Khun cai là Khun tang, Khun téng do dân cử ra. Gia đình người La Ha
là gia đình nhỏ, phụ hệ. Không chỉ con cái mang họ bố mà vợ cũng phải mang họ
chồng.
Hôn nhân một vợ một chồng đã mang tính chất mua bán thể
hiện ở khoản tiền cưới. Quan niệm của người La Ha rất khắt khe về hình thức hôn
nhân một vợ, một chồng, đàn ông không được phép đa thê, khi đã thành gia thất rồi
thì “cái bụng chỉ nhớ đến vợ, không có quyền ưng một người phụ nữ nào khác”. Có
lẽ chính xuất phát từ cái “lý La Ha” ấy mà tập tục buộc đàn ông phải ở rể nhiều
năm trước đám cưới chính được đặt ra.
Trong bản, khi sơn nam, sơn nữ đến tuổi cập kê, họ được tự
do tìm hiểu nhau, cha mẹ và những người lớn cả hai bên không can thiệp dưới bất
cứ hình thức nào. Sau thời gian tìm hiểu từ 3 đến 10 ngày người con trai nói với
bố mẹ cử người đi dạm. Trong 5 ngày nếu nhà gái không trả lại trầu cho nhà trai
có nghĩa là nhà gái đồng ý và 10 ngày sau người con trai đến nhà gái bắt đầu ở
rể làm công cho bố mẹ vợ.
Lễ hỏi của người La Ha không cầu kỳ nhưng bắt buộc phải
có hai thứ đó là một khoản tiền lễ gọi là “nang khả pom” (giá đầu người) để trả
ơn bố mẹ vợ đã có công sinh ra, nuôi lớn cô gái và một mâm trầu. Nhà gái ưng
thuận sẽ cử người có uy tín trong họ tộc ra tận đầu cổng để đón thông, dẫn vào
giữa nhà làm lễ nhận trầu đồng thời đưa áo của cô gái cho bên nhà trai về xem
bói.
Theo tục lệ, con trai La Ha bây giờ muốn chính thức cưới
được vợ vẫn phải đi ở rể, nhưng chỉ theo hình thức vài tuần đến vài tháng chứ
không lâu như trước. Hết hạn ở rể mới bắt đầu tổ chức lễ cưới chính thức thu mà
phu (làm cơm rượu). Luật tục quy định rằng, khi ở rể chàng trai phải làm tất cả
những gì nhà vợ giao và chỉ nghỉ khi vợ cho phép, bù lại anh ta sẽ được làm lễ
cho phép chung chăn, chung gối để đêm đêm được ngủ cùng vợ dù chưa làm lễ cưới
chính thức.
Sau lễ cưới này, cô dâu được đón về nhà chồng, đổi họ
theo họ chồng và không được quay về ở với bố mẹ đẻ nữa, dù chồng chết. Trường hợp
người đàn bà goá đi bước nữa, người chồng thứ hai mang lễ cưới nhỏ thu cơi poọng
(làm gà báo cưới) đến gia đình người chồng thứ nhất chứ không cần có quan hệ gì
với bố mẹ của người đàn bà goá. Người đàn bà goá đi bước nữa vẫn quan niệm rằng
khi chết đi, hồn lại tìm về với người chồng chính thức đã làm lễ thu mà phu. Vì
vậy, ở một số nơi, bố mẹ đã chết cả mà chưa làm được lễ cưới thu mà phu thì con
phải làm lễ cưới đó cho bố mẹ để bố mẹ được sống với nhau ở thế giới bên kia.
Hiện nay, hình thức tiểu gia đình phụ quyền vẫn được bảo
lưu. Việc hôn nhân đã được cải tiến theo hướng tiến bộ. Đồng bào đang dần bỏ tục
mua bán, ở rể và từng bước xây dựng quan hệ hôn nhân gia đình theo pháp luật của
hiện hành.
Thúy Hưởng (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét