Người La Chí là một tộc
người sống ở miền núi phía Bắc Việt Nam từ lâu. Theo truyền thuyết của người La Chí thì họ là con cháu của Hoàng Dìn (Vần) Thùng là một Thổ Tù (Tù Trưởng) ở
xã Tụ Long tỉnh Tuyên Quang từ cuối thế kỷ XVIII. Họ có tên tự gọi là: Cù tê. Các tên gọi khác: Thổ Ðen, Mán, Xá, La Quả.
Ngôn ngữ của người La Chí thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai (ngữ
hệ Thái – Ka Ðai), cùng nhóm với tiếng La Ha, Cơ Lao, Pu Péo.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người La Chí
ở Việt Nam có dân số 13.158 người, cư trú tại 38 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố.
Người La Chí cư trú tập trung tại tỉnh Hà Giang (12.072 người, chiếm 91,7% tổng
số người La Chí tại Việt Nam), ngoài ra còn có tại Lào Cai (619 người), Sài Gòn
(152 người), Tuyên Quang (100 người).
Nhà sàn truyền thống của người La Chí ở
làng văn hóa.
Người La Chí từ lâu đã làm ruộng nước, có nhiều kinh nghiệm
trong việc làm ruộng bậc thang, theo kiểu canh tác truyền thống. Do ruộng ít,
nương giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của người La Chí. Trên nương trồng
lúa, ngô, khoai, sắn, dong riềng, bầu, bí, mướp, đậu, các loại rau và nhiều loại
hoa màu khác, đất canh tác của người La Chí được phân ra làm ba loại nương,
nương dùng gậy chọc lỗ, nương dùng cuốc để xới đất và nương dùng cày. Người La
Chí còn làm loại nương để trồng chàm và nương trồng bông, tự cung cấp một phần
về vải mặc may quần áo. Nghề dệt dệt vải bông, nhuộm chàm, đan lát có truyền thống
lâu đời.Theo nếp cũ, người La Chí không nuôi bò mà chỉ chăn nuôi trâu, ngựa,
dê, lợn, gà, vịt, cá.
Người La Chí đã sống định canh định cư thành từng bản. Mỗi
gia đình có nhà sàn để ở và nhà đất liền kề để làm bếp. Nhà sàn gồm 3 gian, chỉ
có một cầu thang lên xuống ở gần đầu hồi phía giáp nhà đất, bàn thờ tổ tiên đặt
tại gian nhà sàn to nhất.
Mỗi dòng họ người La Chí có riêng trống và chiêng dùng
vào việc cúng bái, có ông trưởng họ là người biết cúng. Con cái đều lấy theo họ
cha. Trong cưới xin, nhà trai phải nộp khoản “tiền công nuôi con gái”.
Trang phục của người La Chí đơn giản, không cầu kỳ. Đàn
ông mặc áo 5 thân dài tới ngang bắp chân (ngày nay áo ngắn hơn), quần lá tọa, đầu
quấn khăn. Phụ nữ mặc áo dài tứ thân, có dây thắt lưng, yếm, đội khăn dài, mặc
quần hay váy tùy người. Đồ trang sức của nam chỉ có vòng tay, còn nữ có thêm
vòng tai. Phụ nữ La Chí thường quen đeo địu qua trán, dù địu làm bằng vải hay
đan bằng giang cũng vậy. Nam giới lại đeo gùi qua hai vai.
Vương Thị Phương, dân tộc La Chí (Hà
Giang), trong một cuộc thi Hoa Hậu Dân Tộc.
Người La Chí có vốn văn học dân gian phong phú, có thần
thoại truyền thuyết và nhiều truyện cổ tích nói về nguồn gốc đất đã sinh vạn vật
và muôn loài, trong đó có người La Chí cùng nhiều dân tộc khác. Các truyện tiêu
biểu là truyệnPủ Lô Tô đề cập đến nguồn gốc
cộng đồng của người La Chí, tryện kể về cụ tổ Hoàng Dìn
(Vần) Thùng, nhiều truyện phản ảnh các hiện tượng tự nhiên như truyện:
Vì sao có mặt trời mặt trăng, truyện nguồn gốc cây lúa và phong tục tập quán,
quan hệ xã hội v.v…
Trai gái La Chí thường hát Ni Ca. Nhạc cụ có trống,
chiêng, đàn tính 3 dây, đàn môi bằng lá cây… Dịp lễ hội thường tổ chức các trò
chơi ném còn, đánh quay, đu quay, đu dây.. tại các nơi bãi rộng để có đông người
tham gia.
Ca Hạnh Phúc (Dân ca Xá)
Mùa Xuân về thỏa ước mơ
Muôn sắc hoa thắm tô hạnh phúc
Rừng vui tươi , suối ngàn reo cười vang
Đồi núi thanh bình
Tiếng ai ngợi ca cuộc sống no lành.
NS Nguyễn Đình Nghĩa ký âm.
Dưới đây mình có các bài:
– Sắc màu văn hóa của tộc người La Chí trên đất nước Việt
Nam.
– Lễ xin tổ tiên bảo vệ ruộng, nương của người La Chí, Hà
Giang
– Lễ hội Tết Khu Cù Tê (Cukute) – Di sản
văn hoá phi vật thể quốc gia
– Lễ mừng cơm mới của người La Chí, Lào Cai
– Người La Chí và phong tục nhận cha mẹ nuôi
– Trang phục dân tộc La Chí
Cùng với 4 clips tổng thể văn hóa dân tộc La Chí để các bạn
tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
(Theo Wikipedia & DTV)
Những ngôi nhà và ruộng bậc thang của
người La Chí ở Hà Giang.
Tộc người La Chí là một trong những sắc màu trên tấm thảm
văn hóa đó. Người La Chí đã sống định canh định cư thành từng bản ở vùng núi đất
từ rất lâu đời, họ sống chủ yếu ở các huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần của tỉnh Hà
Giang. Nhà của mỗi gia đình là một quần thể kiến trúc gồm nhà sàn – nhà trệt –
kho thóc trong một phạm vi không gian hẹp. Mỗi nhà gồm 2 phần, mái nhà được lồng
vào nhau. Phần nhà sàn để ở, còn phần nhà trệt là nơi làm bếp. Ngôi nhà chỉ có
một cầu thang lên xuống ở gần phía giáp nhà trệt.
Khi đến ở nhà mới, người La Chí phải nhờ thầy cúng về
cúng xua đuổi tà ma. Trong suốt 13 ngày kể từ hôm về nhà mới, bếp lửa luôn sáng
thì sẽ được may mắn.
Trong lao động sản xuất, người La Chí rất giỏi khai khẩn
và làm ruộng bậc thang, trồng lúa nước. Họ sử dụng cả 3 loại nương với các công
cụ sản xuất khác nhau như gậy chọc lỗ, cuốc, cày. Ngoài trồng lúa họ còn trồng
chàm và trồng bông (trồng chàm để nhuộm vải, trồng bông để dệt vải).
Trang sức và trang phục của người La
Chí.
Trong mỗi gia đình, thường là ba thế hệ hoặc các cặp vợ
chồng cùng thế hệ chung sống với nhau là phổ biến. Mỗi dòng họ đều có một người
đứng đầu chăm lo việc cúnglễ. Người đó không nhất thiết phải là trưởng họ mà chỉ
là người biết cúng. Chọn người giữ vị trí này bằng cách bói xem xương đùi gà. Tục
nhận bố mẹ nuôi cho trẻ sơ sinh cũng khá phổ biến, trẻ chào đời sau ba buổi
sáng, khi đó gia đình đặt một sợi chỉ đỏ trên một bát nước đầy để ở trên bàn thờ,
chờ ai đó vào nhà trước sẽ được nhận làm bố mẹ nuôi và đặt tên cho cháu bé.
Người La Chí thường thờ cúng tổ tiên vào các dịp lễ tết.
Tổ tiên được cúng ba đời đối với nam, hai đời đối với nữ. Theo phong tục, nếu bố
mẹ chôn ngày nào thì con cái không được gieo trồng hay cho vay, mượn vào ngày
đó, vì đó không phải là ngày sinh sôi phát triển.
Kiến thức và kinh nghiệm được dân gian lưu truyền giữa
các thế hệ bằng truyền khẩu. Truyện thần thoại, cổ tích đặc biệt phong phú, họ
giải thích cho thế hệ trẻ bằng những hiện tượng thiên nhiên và xã hội theo quan
niệm dân gian.
Trong ngày tết các thầy cúng thường nhảy
múa, đánh trống mời thần linh và tổ tiên về ăn Tết.
Ngày lễ tết, trai gái thường hát đối đáp, chơi đàn tính
ba dây, đàn môi. Trống và chiêng cũng được dùng rất phổ biến. Họ tập trung ở
bãi rộng chơi ném còn, đánh quay, chơi đu dây, trẻ em thì thích chơi ống phốc.
Trong lễ cưới của tộc người La Chí, khi đón dâu về tới
chân cầu thang nhà sàn, nhà trai chuẩn bị sẵn một thùng nước ấm để người phù
dâu rửa chân cho cô dâu và rửa chân mình trước khi bước lên cầu thang vào nhà.
Đối với người La Chí, lễ mừng cơm mới có ý nghĩa vô cùng
quan trọng. Họ thường tổ chức lễ mừng cơm mới khi những nương lúa hè thu bắt đầu
chín rộ, họ tổ chức long trọng để tạ ơn tổ tiên, trời đất đã giúp gia đình có một
mùa màng bội thu, con cháu được thóc đầy nhà, lợn bò đầy sân và mong muốn những
mùa tới sẽ được nhiều may mắn, thuận lợi. Với tập tục đã có từ lâu đời, người
La Chí thường chọn ngày Dậu đi ngắt lúa để chuẩn bị cho ngày Tuất sẽ tổ chức
làm lễ mừng cơm mới. Trong những ngày sắp làm lễ cơm mới, người phụ nữ trong
nhà được ví như “mẹ lúa” nên phải dậy từ rất sớm để đi ngắt lúa. Họ quan niệm rằng
những bông lúa đầu tiên có ý nghĩa rất thiêng liêng vì đây là nghi lễ rước hồn
lúa về nhà, gia đình sẽ được thuận lợi may mắn. Khi đi ngắt lúa “mẹ lúa” thường
lặng lẽ đi, tránh gặp những người lạ, trên đường đi có gặp người quen cũng không
chào hỏi mà lặng lẽ đi tiếp.
Mẹ lúa rước hồn lúa về nhà để cầu mong một
năm mùa màng bội thu.
Họ quan niệm rằng nếu hỏi chuyện hồn lúa sẽ hoảng sợ mà
đi mất, năm đó gia đình sẽ không gặp may mắn, mùa màng thất bát. Khi hái những
bông lúa đầu tiên, bao giờ “mẹ lúa” cũng khấn cầu nhỏ: “Hồn gạo, hồn thóc đừng
có chạy”, rồi tiếp tục ngắt cho đến khi đầy giỏ đủ để một bữa làm lễ cầu cơm mới.
Những hạt thóc nếp được cho vào cối giã rồi trộn vào với một số loại lá cây rừng
rồi cho vào chõ đồ chín. Khi xôi chín có các màu sắc rất đẹp (thường gọi là xôi
ngũ sắc). Lễ vật dâng cúng lên tổ tiên, các vị thần trong ngày lễ xôi mới có:
Xôi (cơm mới), rượu, thịt trâu, thịt gà, cá suối nướng… Người phụ nữ cao tuổi
nhất trong nhà sẽ mặc trang phục truyền thống để làm lễ dâng cúng và mời một thầy
cúng trong làng đến cầu khấn giúp. Lễ cầu cơm mới cũng là một dịp để nam thanh
nữ tú trong bản thi hát giao duyên, hát đối, thể hiện một nét văn hóa truyền thống
đặc trưng của người La Chí.
Ngoài ra người La Chí còn có tục lệ rất kỳ lạ mà không có
tộc người nào có, đó là phong tục về ma chay. Tục lệ ma chay của người La Chí rất
phức tạp, lạ lùng, tốn kém. Vật hiến tế cho người chết là con trâu, họ quan niệm
chết là sang một thế giới khác nên vẫn phải có trâu để cày vì thế họ gửi trâu
cho người chết lấy vốn làm ăn.
Đầu trâu được cắm trên cọc chôn trước mộ
của người chết, phong tục của người La Chí.
Khi có người thân trong gia đình chết đi, gia đình và bản
làng sẽ mổ trâu cúng giỗ. Chiếc đầu của con trâu được giữ nguyên thịt, cắm trên
đầu cây gậy mang ra chôn trước mộ của người chết. Theo phong tục cũ thì lễ cúng
cho người mới chết ít nhất phải thịt 3 con trâu, nhưng đến nay tùy theo điều kiện
kinh tế của mỗi gia đình mà chỉ mổ 1 con trâu, vì vậy nhìn vào số lượng đầu trâu
(sọ trâu) treo trên mỗi ngôi mộ thể hiện lòng tôn kính đối với người đã chết,
ngoài ra còn có thể biết rằng con cháu của người đã khuất nghèo hay giàu. Nếu
giàu thì số lượng đầu trâu cắm trên cọc sẽ nhiều hơn. Đối với gia đình nào
nghèo đói, kinh tế khó khăn thì vẫn phải cố gắng lấy 1 cái sọ trâu để treo,
không thể không treo thứ đó ở trước mộ nhà mình vì đó đã trở thành phong tục bấy
lâu nay, không ai được phép kháng cự.
Hàng năm cứ đến dịp Tết tháng bảy, họ lại đi tảo mộ, nhà
nào cũng mổ trâu để cúng giỗ tổ tiên (người La Chí coi Tết tháng bảy to hơn Tết
Nguyên Đán). Trong nhà treo đầy thịt trâu khô, da trâu khô trên gác bếp, mặc dù
ngày nay đời sống cũng đã có nhiều thay đổi, song người La Chí vẫn giữ nguyên
các tập tục này.
Ngoài các phong tục trên, người La Chí còn có phong tục
cúng thần Rừng, thần Nước hàng năm. Những phong tục này mang tính nhân văn sâu
sắc của một nền văn hóa trong đời sống tâm linh của tộc người La Chí.
Các thầy mo trong điệu múa mời tổ tiên.
Lễ xin tổ tiên bảo vệ ruộng, nương của người La Chí, Hà Giang
Người La Chí có các phong tục về làm ruộng, làm nhà ở, cưới
xin, ma chay, trang phục… Trong đó lễ xin tổ tiên bảo vệ ruộng, nương là nghi lễ
lớn nhất trong năm của họ.
Người La Chí ở Hà Giang có khoảng trên 8 nghìn người, cư
trú tập trung ở các xã Bản Phùng, Bản Díu và Bản Máy của các huyện Xín Mần,
Hoàng Su Phì… Họ còn có nhiều tên gọi khác nhau như: Thổ đen, Mán, Xá. Người La
Chí có các phong tục về làm ruộng, làm nhà ở, cưới xin, ma chay, trang phục…
Trong đó lễ xin tổ tiên bảo vệ ruộng, nương là nghi lễ lớn nhất trong năm của họ.
Lễ mừng việc cấy xong và xin tổ tiên bảo vệ ruộng, nương
của người La Chí diễn ra trong tháng Bảy hằng năm. Người dân mời tổ tiên về từ
ngày mồng Một, đến ngày Mười Ba tháng Bảy thì làm lễ tiễn tổ tiên về nơi ngự
giá của mình.
Trong buổi đầu tiên, người dân dâng lễ mời tổ tiên về ăn
tết và vui chơi cùng con cháu. Trước đây, lễ cúng tổ chức tại nhà của trưởng
dòng họ. Mâm lễ được đặt tại gian thờ tổ tiên, thầy cúng (có thể là chủ nhà) ngồi
đọc nội dung bài cúng “… ngày mồng Một tháng Bảy đã mời ma về uống rượu, một
năm chỉ có một lần thôi, sang năm mình cùng xin giống lúa, xin giống lúa đi
gieo mạ, ăn no phải chăm sóc lúa cho tốt, cho cây lúa chắc hạt, cho bông lúa chắc
hạt…”.
Ngày mồng hai tháng Bảy, các dòng họ trong làng bắt đầu rộn
ràng không khí mổ trâu. Đây là phong tục truyền thống có từ rất lâu đời, bởi
trong ngày tết tháng Bảy của người La Chí không bao giờ được thiếu thịt trâu.
Trước đây, trâu mổ trong tết tháng Bảy thường là trâu của làng, do các hộ gia
đình trong làng góp tiền vào mua, sau đó giao cho một – vài gia đình trong làng
có trách nhiệm nuôi trâu, đến ngày tết tháng Bảy thì mổ. Sau ngày lễ mổ trâu,
các dòng họ đều tổ chức lễ ăn tết tại nhà tộc trưởng của dòng họ. Sau khi con
cháu trong gia đình đến đông đủ, trưởng họ tháo trống, tháo chiêng treo gần nơi
bàn thờ tổ tiên, rồi lấy chiếc giỏ tre treo trên bàn thờ tổ tiên xuống, dùng lá
chuối lót bên dưới cho mấy miếng thịt trâu đặt vào trong, lấy một miếng lá chuối
khác đặt úp lên trên.
Lần lượt từng thầy cúng nhảy múa theo nhịp
trống chiêng để mời các thần và tổ tiên.
Ngày này, các trưởng tộc đều phải làm rượu “hoẵng”, đây
là loại rượu rất đặc trưng của người La Chí chỉ dùng trong các ngày lễ. Rượu hoẵng
được lần lượt đổ vào các sừng trâu để trưởng họ làm lễ cúng. Sau khi chuẩn bị
xong, trưởng tộc mặc quần áo theo phong tục truyền thống, lưng đeo một miếng da
trâu, một tay cầm sừng trâu, một tay cầm một sợi dây treo củ gừng rồi miệng lẩm
nhẩm cúng gọi ba đời tổ tiên về ăn tết tháng Bảy với con cháu. Mời xong, ông cầm
chén uống hết rượu để làm lý rồi lại tiếp tục gọi người khác. Sau lễ cúng, trống,
chiêng nổi lên rộn rã trong suốt những ngày dân làng ăn tết.
Đến hết ngày Mười Ba tháng Bảy, con cháu tiếp tục làm mâm
lễ tiễn tổ tiên về nơi ngự giá của mình. Mâm lễ cúng không có gì thay đổi so với
ngày đầu, thầy mo mặc trang phục sinh hoạt thường ngày, ngồi vào vị trí và khấn
theo nội dung: “Hôm nay là ngày Mười Ba tháng Bảy… năm nay lúa ruộng, lúa nương
của mình sẽ tốt, bông nào cũng to, không bị con sâu ăn lá, không bị con sâu đục
thân, cấy lúa một khóm được một khóm nhá…”
Trước đây, vào tháng Bảy, đồng bào La Chí thường tổ chức
cúng tổ tiên, thi hát, trò chơi ở những bài trống, thì nay, thay vào đó là những
tiệc rượu. Theo một số người cao niên, lý do chính dẫn tới quy mô giảm đi của lễ
hội là do người dân di cư không đầy đủ theo một dòng họ, không có ông “then” đại diện cho mỗi dòng họ, dân cư ít, không có
nơi vui chơi cộng đồng, thiếu đạo cụ, nhạc cụ…
Có thể nói, mặc dù dân số không đông, nhưng người La Chí ở
Hà Giang luôn cùng kề vai sát cánh với các dân tộc khác trong lao động xây dựng
và bảo vệ quê hương. Trong sự phát triển của mình, người La Chí giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc, một số phong tục tập quán tốt đẹp tiếp tục được phát huy, một
số hủ tục đang dần được uốn nắn để nhanh chóng hòa đồng với các dân tộc khác
trong vùng, để thích ứng với sự phát triển chung của đất nước hiện nay.
Lễ hội Tết Khu Cù Tê – Di sản văn hoá
phi vật thể quốc gia.
Lễ hội Tết Khu Cù Tê được
xem là ngày tết có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống sinh hoạt văn hóa, tín
ngưỡng của cộng đồng người La Chí. Đây là dịp để người La Chí cầu cho dân bản
có cuộc sống bình yên, ấm no, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt…
Đến Hà Giang vào tháng Bảy Âm lịch hàng năm, du khách sẽ
được hòa mình vào không khí của những lễ hội tâm linh đầy màu sắc, đặc biệt nhất
phải kể đến lễ hội “Khu Cù Tê” đặc trưng của đồng bào dân tộc La Chí.
Rượu “hoãng”, rượu này chỉ dùng trong
các ngày lễ tết.
Lễ hội Tết Khu Cù Tê có lịch
sử lâu đời, thể hiện những yếu tố văn hóa thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng nguyên
thủy, coi vạn vật hữu linh, niềm tin vào thế giới thần linh và đặc trưng cho nền
văn hoá sản xuất nông nghiệp. Đối với cộng đồng người La Chí, Lễ hội Tết Khu Cù Tê là dịp những người trong dòng họ có dịp
gặp nhau. Đến ngày tết dù ở xa cũng quay trở về cùng gia đình dòng tộc của
mình, cùng ăn uống hàn huyên tâm sự, thể hiện tinh thần gắn kết cộng đồng, đồng
thời cầu cho cuộc sống ấm no gia đình hạnh phúc chính vì vậy mà cộng đồng dân tộc
La Chí trong truyền thống hàng năm của mình không thể thiếu Lễ hội này.
Lễ Tết Khu Cù Tê thường
kéo dài từ những ngày đầu tháng Bảy đến giữa tháng Bảy mới kết thúc. Trong ngày
tết tháng Bảy của người La Chí không bao giờ được thiếu thịt trâu vây nên ngay
từ ngày mồng hai tháng Bảy, khắp các buôn làng nguời La Chí đã bắt đầu rộn ràng
mổ trâu ăn tết. Sau ngày lễ mổ trâu, các dòng họ đều tổ chức lễ ăn tết tại nhà
tộc trưởng của dòng họ.
Lễ cúng Tết Khu Cù Tê của người La Chí
diễn ra rất trang trọng.
Vào ngày Tết, các trưởng tộc đều phải làm một loại rượu rất
đặc trưng của người La Chí đó là rượu “hoãng”, rượu này chỉ
dùng trong các ngày lễ tết. Rượu hoẵng được lần lượt đổ vào các sừng trâu để
trưởng họ làm lễ cúng.
Lễ cúng Tết Khu Cù Tê của
người La Chí diễn ra rất trang trọng. Các cụ trong hội đồng già làng sẽ bày giỏ,
mâm, rượu cúng trong tiếng trống tiếng chiêng rộn rã, tiễn đưa cụ tổ của người
La Chí cùng các cụ tổ tiên ba đời về nơi ở làm ăn, cầu mong phù hộ cho dân làng
có cuộc sống ấm no, yên ổn, mùa màng tốt tươi.
Lễ hội Tết Khu Cù Tê đã
trở thành món ăn không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào
dân tộc La Chí từ ngàn đời xưa đến nay, chính vì nét văn hoá đặc sắc đó mà Lễ hội
đã được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đưa vào danh sách di sản văn hoá phi vật
thể quốc gia.
Người La Chí ở Lào Cai.
Lễ mừng cơm mới của người La Chí, Lào Cai
Lễ mừng cơm mới có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống
sản xuất của người La Chí sinh sống ở Lào Cai, được tổ chức để tạ ơn tổ tiên đã
giúp đỡ gia đình có vụ mùa bội thu và cầu mong vụ mùa mới gặp nhiều may mắn,
thuận lợi.
Lễ mừng cơm mới của các dân tộc thiểu số ở Lào Cai có từ
lâu đời. Đây là một trong những nét văn hóa truyền thống đặc trưng của hầu hết
đồng bào vùng cao, trong đó có người La Chí. Mặc dù ngày nay đời sống vật chất,
tinh thần có nhiều đổi mới, song họ vẫn còn giữ nguyên nét đẹp truyền thống
mang đậm đà bản sắc tộc người…
Người La Chí thường chọn ngày dậu đi ngắt lúa, ngày Tuất
tổ chức lễ cơm mới. Đây là nghi lễ rất quan trọng, nên trước ngày tổ chức, người
vợ của chủ nhà được ví như “mẹ lúa” sẽ phải dậy rất sớm chuẩn bị gùi, nhíp đi
ngắt những bông lúa đầu tiên đồ cơm mới cúng tạ ơn tổ tiên. Việc đi ngắt những
bông lúa đầu tiên còn có ý nghĩa rất thiêng liêng, bởi đây còn là nghi lễ “rước”
hồn lúa về, với mong muốn cầu cho mùa vụ mới của gia đình sẽ may mắn, thuận lợi.
Chuẩn bị lễ vật mừng cơm mới.
Theo quan niệm của người La Chí, khi đi ngắt lúa, “mẹ
lúa” kiêng không cho người khác biết, kiêng gặp người lạ, khi đi trên đường nếu
gặp người khác cũng không chào, không hỏi, vì họ quan niệm nếu hỏi chuyện, hồn
lúa hoảng sợ sẽ đi mất thì năm sau mùa màng của gia đình sẽ không được may mắn.
Khi hái bông lúa đầu tiên, “mẹ lúa” nói nhỏ “Hồn gạo, hồn thóc đừng có chạy”,
sau đó hái ba bông đầu gói vào một lá chuối theo lý đó là hồn gốc lúa được cất
vào trong gùi rồi mới tiếp tục ngắt các bông lúa khác.
Các cum lúa hái về được cất trong kho thóc để tránh trẻ
nhỏ trông thấy, sờ vào vì họ sợ sau này khi nấu cơm hay bị sống, sẽ không may mắn
cho gia đình. Đến đêm, khi các thành viên trong gia đình đã ngủ say, “mẹ lúa” lấy
các cum lúa mới ra sấy trên bếp rồi cho vào cối giã, sàng, sảy thành gạo để
sáng sớm hôm sau dậy đồ cơm. Người La Chí chỉ dùng gạo nếp để làm cơm mới cúng
tổ tiên.
Đến ngày Tuất, các gia đình đều mời thầy cúng trong làng
đến cúng giúp. Lễ vật dâng trong lễ cơm mới của người La Chí rất đơn giản gồm:
Cá, rượu, thịt trâu (miếng da trâu), đặc biệt không thể thiếu được thịt chuột
(để cả con). Khi các món ăn đã chế biến xong, chủ nhà bày lên chiếc mâm đặt trước
bàn thờ tổ tiên (có gia đình làm lễ tại nương). Trong buổi lễ, người phụ nữ cao
tuổi mặc trang phục truyền thống chỉnh tề đóng vai “Mẹ lúa” dâng lễ cúng. Bà mẹ
lúa tiến hành nghi lễ gặt lúa tượng trưng, diễn tả động tác gặt lúa, giã gạo và
lẩm nhẩm cúng khấn. Ý nghĩa của bài cúng là nhờ có tổ tiên dạy bảo biết làm ra
hạt gạo nuôi sống con người, hôm nay gia đình làm cơm mới mời tổ tiên, thần
lúa, thần gạo… chứng kiến lòng thành, phù hộ cho gia đình mạnh khỏe, sản xuất
được nhiều lúa gạo. Trong lễ mừng cơm mới, các nam thanh, nữ tú còn thi hát
giao duyên, hát đối đáp và chơi các trò chơi bập bênh, đu đôi nam nữ./.
Bé gái La Chí.
Người La Chí và phong tục nhận cha mẹ nuôi
Tục nhận cha mẹ nuôi là một nét văn hóa truyền thống của
người La Chí (Lào Cai), nó thể hiện tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái,
giúp đỡ nhau trong việc nuôi dạy con cái.
Nhận cha mẹ là phong tục có ở nhiều đồng bào dân tộc,
nhưng mỗi dân tộc lại có quan niệm, cách thức và những nghi lễ nhận con nuôi một
cách khác nhau. Với người La Chí ở Lào Cai thì tục nhận cha mẹ nuôi cho trẻ xuất
phát từ nguyên nhân những đứa trẻ hay ốm đau, chậm lớn, còi cọc, hay hờn dỗi
thì họ cho rằng đứa trẻ có số mệnh không hợp bố mẹ đẻ. Do vậy, bố mẹ đẻ phải
tìm cho đứa trẻ một người làm bố mẹ nuôi thì đứa trẻ mới mau lớn, khỏe mạnh,
không bị ốm đau…
Để tìm người làm bố mẹ nuôi cho đứa trẻ, bố mẹ đứa trẻ nhờ
một thầy cúng là người đại diện cho người trần liên hệ với giới thần linh trong
cộng đồng sẽ mách bảo cho bố mẹ đứa trẻ đến một gia đình nào đó trong dòng họ,
trong làng xin một bát gạo mang về nấu cháo cho đứa trẻ ăn. Nếu sau khi ăn
cháo, đứa trẻ không còn hờn dỗi, khóc lóc hay đau ốm như trước thì bố mẹ đứa trẻ
sẽ chọn một ngày tốt địu đứa trẻ, đồng thời mang một con gà, một bộ quần áo, một
sợi chỉ màu để nhận gia đình nhà đó làm thông gia.
Khi đến gia đình, bố mẹ đứa trẻ sẽ trình bày lý do để gia
đình đó chấp nhận làm bố mẹ nuôi. Sau đó chủ nhà mang gà đi mổ, luộc chín đặt
lên mâm cúng báo cáo tổ tiên là từ nay gia đình có thêm một thành viên mới. Rồi
bố mẹ nuôi đứa trẻ lấy sợi chỉ màu buộc vào cổ tay đứa trẻ với ý nghĩa để giữ hồn
không cho đi lang thang và mọi người cùng ăn uống vui vẻ.
Khác với cách thức trên, một số gia đình lại chọn bố mẹ
nuôi cho đưa trẻ bằng cách vào buổi sáng sớm, bố đứa trẻ sẽ mang bát múc đầy một
bát nước đặt lên bàn thờ tổ tiên. Lấy các sợi chỉ màu vê thành một sợi dây đặt
lên miệng bát nước. Sau đó người chủ gia đình ngồi uống nước, hút thuốc đợi xem
ai là người đầu tiên bước lên trên sàn nhà, thì chủ nhà sẽ mời người đó vào nhà
uống nước, rồi thưa chuyện với người khách. Nếu họ đồng ý thì hai gia đình nhận
làm thông gia.
Bố mẹ đứa trẻ sẽ mổ gà, mời người đó ở lại ăn cơm với gia
đình. Đồng thời, buộc dây chỉ vào cổ đứa trẻ, với ý nghĩa để giữ hồn, nhờ vía của
người đó mà đứa trẻ sẽ hay ăn, trong lớn, không bị ốm đau, bệnh tật. Rồi gia
đình hẹn ngày đưa con, cùng lễ vật sang gia đình vái nhận làm cha mẹ nuôi cho
con mình.
Ngoài ra, bố mẹ đứa trẻ có thể chọn cha mẹ nuôi cho đứa
trẻ bằng cách khác. Gia đình sẽ chọn một ngày tốt, sau đó bện một sợi chỉ màu rồi
người bố địu con trên lưng đi theo lời chỉ dẫn của thầy cúng. Người bố địu con
đến một đoạn đường nơi có nhiều người qua lại rồi đứng ở đó chờ khi nào gặp được
người đầu tiên thì bố mẹ đứa trẻ sẽ nhận người đó làm cha, mẹ nuôi. Rồi nhờ người
đó buộc sợi chỉ vào tay cho đứa bé và đặt tên mới theo dòng họ của cha mẹ nuôi.
Sau khi nhận được cha mẹ nuôi, hai gia đình nhận làm
thông gia thường xuyên qua lại, thăm hỏi lẫn nhau. Khi hai gia đình có công việc
lớn, hay vào các dịp lễ tết, họ đều mời nhau đến nhà chơi, ăn cơm, uống rượu thể
hiện tình cảm gắn bó, đoàn kết giữa hai gia đình.
Qua
đó, cho thấy tục nhận cha mẹ nuôi cho trẻ của người La Chí mang ý nghĩa nhân
văn sâu sắc, thể hiện tinh thần đoàn kết, góp phần gìn giữ, bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng.
Trang phục phụ nữ La Chí.
Người La Chí duy nhất chỉ có ở Hà Giang, họ rất giỏi trồng
trọt, nhất là trồng bông, trồng chàm để dệt vải tuy nhiên trang phục của họ
không cầu kỳ về hình thức nhưng lại rất tỉ mỉ về những họa tiết và đường nét.
Nhìn chung, trang phục truyền thống của nam giới La Chí
là mặc áo 5 thân dài tới ngang bắp chân, quần lá tọa, đầu quấn khăn, trong khi
đó, phụ nữ thường mặc áo dài tứ thân, có dây thắt lưng, yếm, đội khăn dài, mặc
quần hoặc váy.
Đối với người La Chí, thuê thùa và may vá là một trong những
tiêu chí quan trọng để đánh giá phẩm chất, đạo đức, sự khéo léo và chăm chỉ của
người phụ nữ. Ngay từ nhỏ, trẻ em La Chí được mẹ dạy cách tỉ mỉ từng đường kim
mũi chỉ để sau này lớn lên có thể tự trồng bông, dệt vải, thêu thùa, may vá những
bộ trang phục cho riêng mình. Con trai La Chí trước khi chọn vợ cũng thường “để
ý” những cô gái đảm đang việc khâu vá.
Trang
phục của người La Chí có hai nét tiêu chí là hoa văn thêu chỉ và hoa văn ghép vải.
Thêu chỉ là mẫu hoa văn được trang trí phổ biến nhất trên trang phục của phụ nữ.
Có hai loại thêu, thêu móc và thêu xuyên. Người La Chí dùng các loại sợi chỉ
màu do mình tự làm ra, hay đi mua từ chợ về để thêu. Các mẫu hoa văn thêu trang
trí trên trang phục của nữ chủ yếu được thêu ở hai bên cổ áo gồm các mô-típ hoa
văn hình tam giác, hình chấm tròn, hình quả trám kết hợp với các đường viền với
nhiều gam màu khác nhau như xanh, trắng, đỏ, vàng, tím tạo nên nét nổi bật của
các mô-típ, họa tiết hoa văn.
Trang phục dân tộc La Chí.
Mô típ trang trí chủ đạo là hoa văn nằm ở giữa, xung
quanh là các đường viền được thêu móc thành hình chấm tròn với nhiều màu sắc
khác nhau.
Trong khi đó, hoa văn ghép vải được xem là tinh hoa của
nghệ thuật trang phục truyền thống La Chí. Các mẫu hoa văn ghép vải chủ yếu là
các đường viền, hoa văn hình tam giác cân với các màu sắc chủ đạo là màu đỏ và
màu tím, đây cũng là hai màu mà người La Chí ưa thích, tượng trưng cho sự may mắn,
hạnh phúc. Còn các mẫu hoa văn thêu chỉ chủ yếu là hoa văn hình đối xứng, chấm
nhỏ và các đường viền lượn sóng được thêu thành các dải hình chữ nhật.
Theo phong tục, trong đám cưới, anh em họ hàng thường tặng
cô dâu, chú rể một đội địu với ý nghĩa cầu chúc sự may mắn, yên lành và mong vợ
chồng sớm sinh con. Vì vậy, chiếc địu luôn được làm rất cẩn thận và cầu kỳ, tỉ
mỉ, tinh tế trong từng đường nét. Để chuẩn bị thêu, người phụ nữ chọn những loại
vải hoa, có nhiều màu sắc khác nhau, sau đó cắt thành các mẫu hoa văn theo ý muốn
rồi dùng kim khâu đính với phần thân địu. Các mẫu hoa văn trang trí trên địu của
người La Chí có sự kết hợp hài hòa giữa các mẫu hoa văn ghép vải và hoa văn
thêu chỉ.
Để trang phục có hoa văn ghép vải trở nên tinh xảo, cách
bố trí bố cục của các mẫu hoa văn là rất quan trọng. Đó là việc trang trí hài
hòa trong các đường viền hình vuông, bên ngoài là các mẫu hoa văn ghép vải, phần
tâm là các mẫu hoa văn thêu chỉ được phối hợp nhiều màu sắc khác nhau, tạo nên
sự mềm mại, độc đáo trong cách trang trí của mình.
Minh Hằng (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét