Nhà Rông người Ba Na
Tổng số dân: 174.456
(2003); 227.716 (2009)
Khu vực có số dân đáng kể:
Việt Nam, Hoa Kỳ?
Ngô ngữ: Tiếng Ba
Na, tiếng Việt,
Tôn giáo: Tín ngưỡng dân
gian, Kitô giáo
Người Ba Na (các tên gọi
khác: Ba Na Dưới Núi, Ba Na Đông, Ba Na Tây, Ba Na Trên Núi, Tơ Lộ, Bơ
Nâm, Glơ Lâng, Rơ Ngao, Krem, Roh, Con Kde, A la công, Krăng, Bơ Môn, Kpăng
Công, Y Lăng) là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.
Người Ba Na cư
trú chủ yếu ở cao nguyên trung phần Việt Nam, có dân số 174.456 người (đến năm
2003)
Địa bàn cư trú
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009,
người Ba Na ở Việt Nam có dân số 227.716 người, cư trú tại 51 trên tổng số
63 tỉnh, thành phố. Người Ba Na cư trú tập trung tại các tỉnh: Gia
Lai (150.416 người, chiếm 11,8% dân số toàn tỉnh và 66,1% tổng số người Ba
Na tại Việt Nam), Kon Tum (53.997 người, chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh
và 23,7% tổng số người Ba Na tại Việt Nam), Phú Yên (4.145 người, chiếm
12,5% dân số toàn tỉnh và 23,7% tổng số người Ba Na tại Việt Nam), Bình Định (18.175
người, chiếm 8,0% tổng số người Ba Na tại Việt Nam), Đắk Lắk (301 người), Bình
Thuận (133 người)[1].
Người Ba Na có nhiều tên gọi khác nhau theo nơi cư trú
hay phong tục tập quán mỗi vùng.
Ngôn ngữ
Tiếng Ba Na thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer.
Nhà cửa
Ở mỗi làng có một nhà công cộng là nhà Rông to,
đẹp ở giữa làng. Nhà rông cao lớn và đẹp đứng nổi bật giữa làng, đó là trụ sở của
làng, nơi các già làng họp bàn việc công, nơi dân làng hội họp, nơi trai chưa vợ
và góa vợ ngủ đêm, nơi tiến hành các nghi lễ phong tục của cộng đồng và cũng là
nơi tiếp khách lạ vào làng.
Nhà ở của người Ba Na thuộc loại hình nhà sàn. Trước
đây khi chế độ gia đình lớn còn thịnh hành, ở vùng người Ba Na sinh sống thường
có những căn nhà dài hàng trăm mét, tuy nhiên hiện nay chế độ gia đình lớn
không còn nữa, mô hình các gia đình nhỏ với những căn nhà sàn gọn gàng xuất hiện
ngày càng nhiều. Nhà sàn ngắn của các gia đình nhỏ là phổ biến. Nhà sàn thường
dài từ 7m đến 15m, rộng từ 3m-4m, cao từ 4m-5m, sàn cách mặt đất khoảng 1m đến
1,5m
Mặc dù có nhiều thay đổi, nhưng vẫn tìm được ở nhiều địa
phương khác nhau những ngôi nhà Ba Na với những đặc điểm đặc trưng của nhà cổ
truyền Ba Na là nhà nóc hình mai rùa hoặc chỉ còn là hai mái chính với hai mái
phụ hình khum - dấu vết của nóc hình mai rùa. Chỏm đầu dốc có "sừng"
trang trí (với các kiểu khác nhau tùy theo địa phương). Vách che nghiêng theo
thế "thượng thu hạ thách". Có nhà, cột xung quanh nhà cũng chôn
nghiêng như thế vách. Thang đặt vào một sàn lộ thiên trước cửa nhà. Trên sàn
này người ta đặt cối giã gạo (cối chày tay). Điểm đáng chú ý là dưới đáy cối có
một cái "ngõng". Khi giã gạo người ta cắm cái ngõng ấy vào một cái lỗ
đục trên một thanh gỗ đặt trên sàn.
Nhà tre vách nhưng có thêm lớp đố, bên ngoài buộc rất cầu
kỳ như là một lớp trang trí.
Bộ khung nhà kết cấu đơn giản. Có làm vì kèo nhưng vẫn
trên cơ sở của vì cột. Tổ chức mặt bằng đơn giản.
Nhà Rông người Ba Na
Ở mỗi làng có một nhà công cộng là nhà Rông to,
đẹp ở giữa làng. Nhà rông cao lớn và đẹp đứng nổi bật giữa làng, đó là trụ sở của
làng, nơi các già làng họp bàn việc công, nơi dân làng hội họp, nơi trai chưa vợ
và góa vợ ngủ đêm, nơi tiến hành các nghi lễ phong tục của cộng đồng và cũng là
nơi tiếp khách lạ vào làng.
Nhà ở của người Ba Na thuộc loại hình nhà sàn. Trước
đây khi chế độ gia đình lớn còn thịnh hành, ở vùng người Ba Na sinh sống thường
có những căn nhà dài hàng trăm mét, tuy nhiên hiện nay chế độ gia đình lớn
không còn nữa, mô hình các gia đình nhỏ với những căn nhà sàn gọn gàng xuất hiện
ngày càng nhiều. Nhà sàn ngắn của các gia đình nhỏ là phổ biến. Nhà sàn thường
dài từ 7m đến 15m, rộng từ 3m-4m, cao từ 4m-5m, sàn cách mặt đất khoảng 1m đến
1,5m
Mặc dù có nhiều thay đổi, nhưng vẫn tìm được ở nhiều địa
phương khác nhau những ngôi nhà Ba Na với những đặc điểm đặc trưng của nhà cổ
truyền Ba Na là nhà nóc hình mai rùa hoặc chỉ còn là hai mái chính với hai mái
phụ hình khum - dấu vết của nóc hình mai rùa. Chỏm đầu dốc có "sừng"
trang trí (với các kiểu khác nhau tùy theo địa phương). Vách che nghiêng theo
thế "thượng thu hạ thách". Có nhà, cột xung quanh nhà cũng chôn
nghiêng như thế vách. Thang đặt vào một sàn lộ thiên trước cửa nhà. Trên sàn
này người ta đặt cối giã gạo (cối chày tay). Điểm đáng chú ý là dưới đáy cối có
một cái "ngõng". Khi giã gạo người ta cắm cái ngõng ấy vào một cái lỗ
đục trên một thanh gỗ đặt trên sàn.
Nhà tre vách nhưng có thêm lớp đố, bên ngoài buộc rất cầu
kỳ như là một lớp trang trí.
Bộ khung nhà kết cấu đơn giản. Có làm vì kèo nhưng vẫn
trên cơ sở của vì cột. Tổ chức mặt bằng đơn giản.
Hôn nhân, gia đình
Người Ba Na cho phép tự do tìm hiểu và lựa chọn bạn đời,
việc cưới xin đều theo nếp cổ truyền. Vợ chồng trẻ ở luân phiên mỗi bên một thời
gian, theo thỏa thuận giữa hai gia đình hai bên, sau khi sinh con đầu lòng mới
làm nhà riêng. Trẻ em luôn được yêu quý. Dân làng không đặt trùng tên nhau.
Trong trường hợp những người trùng tên gặp nhau, họ làm lễ kết nghĩa, tùy tuổi
tác mà xác lập quan hệ anh-em, cha-con, mẹ-con.
Các con được thừa kế gia tài như nhau. Trong gia đình, mọi
người sống hòa thuận bình đẳng. Người Ba Na thờ cúng nhiều thần linh.
Hôn nhân
Trước đây, trai gái Ba Na khi đến tuổi
trưởng thành (20 tuổi đối với nam; 18 tuổi đối với nữ), được tự do yêu thương,
tìm hiểu lẫn nhau, nhưng quyền quyết định đi đến hôn nhân không phải không có ảnh
hưởng của cha mẹ. Trong thực tế, nhiều khi cha mẹ can thiệp rất nhiều vào chuyện
hôn nhân của con cái. Thậm chí, trong một số trưởng hợp, quyết định gả cưới của
cha mẹ hoàn toàn đi ngược lại mong muốn của các con. Chính vì vậy, trong ngôn
ngữ của người dân ở đây tồn tại hai thuật ngữ hôn nhân. Trong tường hợp trai
gái tự do yêu đương và tìm người bạn đời tiến tới hôn nhân, người dân gọi
là chărơihkơ ding (hôn nhân tự chọn); trường hợp cha mẹ quyết
định gả bán con theo ý kiến riềng của mình, người dân gọi là mẽ bă pơ
giao ăn (cha mẹ gả bán).
Trong thời điểm hiện nay, trai gái yêu thương và tự nguyện
đến với hôn nhân phổ biến hơn nhiều so với quyết định gả bán của cha mẹ. Tuổi kết
hôn cũng đang co xu hướng tăng lên, thường con trai trên 25 tuổi mới lấy vợ,
con gái khoảng 20 tuổi mới lấy chồng. Việc gả bán con cái theo ý riêng của cha
mẹ thường chỉ xảy ra giữa gia đình giàu có với gia đình nghèo vì lý do kinh tế,
hay sắc đẹp. Các gia đình tương đương về điều kiện kinh tế, về địa vị xã hội
thì con cái của họ phần lớn tự do tìm hiểu để đi đến hôn nhân. Tiêu chuẩn lựa
chọn bạn đời, lựa chọn thông gia dựa trên việc so sánh giàu nghèo đã ít còn được
đặt ra như trong quá khứ. Sự chênh lệch tuổi tác giữa nam và nữ (thậm chí chênh
lệch nhiều) cũng không phải là điều quan trọng. Vấn đề mang tính quyết định để
đi đến hôn nhân, trong thời điểm hiện tại là trai gái phải thương yêu nhau.
Tiêu chuẩn hàng đầu để các chàng trai, cô gái nơi đây chọn bạn đời chính là đạo
đức, sức khoẻ và tính cần cù, siêng năng và thạo việc.
Đối với người Ba Na, hôn nhân một vợ một chồng từ lâu đã
mang tính phổ biến và bền vững. Trong làng, vào thời điểm hiện tại, tất cả đều
là các gia đình một vợ một chồng sinh sống cùng con cái. Dù do cha mẹ gả bán
hay do họ tự tìm đến với nhau do tiếng gọi của tình yếu thì hầu như tất cả các
cặp vợ chồng đều sống với nhau hạnh phúc đến đầu bạc, răng long. Rất ít trường
hợp li dị. Các lí do dẫn đến li dị giữa các cặp vợ chồng thường là do người vợ
vô sinh, đàn ông ngoại tình hay có những bất hòa không giải quyết được dẫn đến
chửi mắng, đánh đập nhau. Hiện nay, giải quyết vấn đề li dị của các cặp vợ chồng
không chỉ dừng lại ở quyết định của Hội đồng già làng như trước kia, mà phải được
đưa ra xử lý theo pháp luật hiện hành của Nhà nước. Tuy nhiên, khi vừa xảy ra
những lục đục giữa các cặp vợ chồng trong làng, Hội đồng già làng, thông qua Tổ
hòa giải đã thể hiện vai trò của mình. Nếu việc hoà giải không đạt được kết quả
như ý, hai vợ chồng vẫn quyết ly dị thì họ buộc phải đưa vụ việc ra giải quyết
trước luật pháp.
Là một dân tộc theo nguyên tắc ngoại hôn dòng họ nên
phong tục của người Ba Na khuyến khích những đôi trai gái khác dòng họ kết hôn
với nhau. Nếu xác định được rõ ràng hai người trong cùng một krung ktum thì
chuyện cưới xin khó xảy ra. Tuy nhiên, do có sự phân biệt giữa họ gần và họ xa
nên nguyên tắc hôn nhân ngoài dòng họ ở đây được thực thi với hai cấp độ khác
nhau:
Thứ nhất, toàn bộ các thành viên nam nữ thuộc họ gần (krung
ktum gel), tức là con cháu trong vòng ba đời của một ông bà tổ, bao gồm cả
bên cha và bên mẹ, như: con cô, con cậu, con chú con bác, con dì con già; cháu
cô cháu cậu, cháu chú cháu bác, cháu dì cháu già... tuyệt đối không có quan hệ
tính giao và hôn nhân. Với người Gia-rai, một dân tộc láng giềng, cư trú tập
trung tại tỉnh Gia Lai, không có sự ngăn cấm kết hôn một cách nghiêm ngặt
giữa hai người cùng một dòng họ thuộc đời thứ ba, nhất là con cô con cậu. Người
Ba Na làng Kon Rờ Bàng thì khác, nếu ai vi phạm quy định đó tức đã mắc tội loạn
luân (hagăm) và bị làng xử phạt rất nặng theo luật tục. Họ cho rằng người
cùng một dòng họ lấy nhau là trái với đạo đức, khiến thần linh nổi giận gây ra
các tai họa để trừng phạt con người như cháy làng, dịch bệnh, mất mùa... Dòng họ
nào để xảy ra chuyện đó sẽ phải chuẩn bị đủ 3 con trâu, 3 con dê, 3
con gà và 3 ché rượu để cúng thần nhà rông, thần nước để giải
hạn cho dân làng và chính hai gia đình đó. Nghi thức quan trọng nhất trong lễ
cúng là chủ làng đọc lời cúng mời giàng về ăn uống và dân làng buộc đôi trai
gái bị phạt lấy một ít tiết của con vật hiến sinh hòa với rượu, đổ vào vỏ bầu
mang đến từng nhà trong làng, dùng cành cây tre nhúng vào quả bầu đựng nước rồi
quết lên chân cầu thang với ngụ ý xua đuổi, tẩy uế mọi rủi ro tai họa, mong
giàng đừng bắt tội dân làng...
Thứ hai, các thành viên nam, nữ thuộc họ xa (krung
ktum gel), tức là con cháu của một ông bà tổ, từ đời thứ bốn trở lên, tính
theo đằng cha, cũng có thể lấy được nhau, nhưng phải làm một lễ cúng nhỏ tạ lỗi
với tổ tiên. Khi đó họ sẽ không mắc vào tội loạn luân và không vi phạm luật tục.
Những trường hợp nam, nữ quan hệ tình cảm sâu nặng với
nhau mà không đi đến hôn nhân, không làm thủ tục cưới hỏi thì làng thì bắt vạ một
con dê, một con bò, hoặc một con gà. Trước thập niên 1960, trai gái chưa
cưới xin có quan hệ với nhau lỡ có con, phải tiến hành lễ cúng thần trước khi
trỉa lúa, vào khoảng đầu tháng 4, với lễ vật là một con dê và một con lợn.
Người dân quan niệm các trường hợp vi phạm này đã làm ảnh hưởng đến thần đất,
thần lúa nên buộc phải tiến hành lễ cúng phạt trước khi trỉa lúa nếu không dân
làng sẽ mất mùa, đói kém. Vào ngày tổ chức nghi lễ, những con lợn, dê lễ vật được
giết thịt lấy máu trộn với rượu. Cũng tương tự như những người mắc tội loạn
luân, đôi trai gái phạm tội phải lần lượt mang thứ máu chộn rượu đó bôi vào
chân từng chiếc cầu thang lên nhà trong làng, vừa bôi vừa xin lỗi mọi người xin
đừng nhớ, xin bỏ qua chuyện cũ... Trong trường hợp người con gái có chửa mà
không chịu khai ra bố của đứa trẻ thi cô ta sẽ phải chịu hình phạt một mình, từ
trách nhiệm chuẩn bị lễ vật tới việc thực hiện các thủ tục trong lễ cúng. Trường
hợp hai bên cùng nhau nhận lỗi thì chàng trai phải chịu trách nhiệm cao hơn.
Không chỉ chuẩn bị lễ vật nộp phạt và thực hiện nghi lễ, người con trai còn phải
cưới cô gái làm vợ và chăm sóc, nuôi dưỡng đứa trẻ nên người. Nếu đã bị phát hiện
và thừa nhận là cha của đứa trẻ mà không cưới cô gái và không chịu chăm sóc đứa
trẻ, ngoài việc nộp phạt cho làng, chàng trai còn phải đền cho cô gái một
con bò. Trường hợp người con gái có
quan hệ với nhiều người con trai, khi có thai, chàng trai có quan hệ với cô sau
cùng phải đền nhiều hơn hoặc có thể chia thành các phần trách nhiệm đều nhau.
Theo phong tục truyền thống của người Ba Na làng Kon Rờ
Bàng, những trường hợp chồng hay vợ chết sớm chưa được làm lễ bỏ mả, người goá
có thể tái giá, nhưng trước đó phải tiến hành một lễ cúng với lễ vật gồm một
ghè rượu, một con gà. Sau khi tiến hành nghi lễ, việc tái giá của người goá được
dân làng đồng tình, ủng hộ. Vì vậy, nghi lễ này cũng có vai trò tương tự lễ bỏ
mả. Tuy nhiên, đó là lễ bỏ mả sớm. Thời gian sớm nhất có thể thực hiện nghi lễ
này là 3 năm sau khi người chồng hoặc người vợ mất đi. Trong trường hợp người
goá có quan hệ trai, gái trước thời điểm này sẽ bị làng phạt một bò làm lễ
cúng, vì tội vi phạm quy định hôn nhân. Sau khi người mẹ chết, nếu bố lấy vợ mới,
con cái thường không ở với bố và mẹ kế mà về sống với ông bà nội. Chỉ khi ông
bà nội cũng đã mất, không còn nơi nương tựa, con của người vợ trước mới ở chung
với người vợ sau của bố. Trong trường hợp người đàn ông đang sống cùng vợ con,
nhưng lại có quan hệ tình cảm sâu nặng với người phụ nữ khác, luật tục bắt buộc
ông ta phải làm thủ tục li dị, bỏ người vợ trước mới có quyền cưới người vợ
sau.
Nhà sàn của người Ba Na trong khuôn viên Bảo tàng Quang Trung (Bình
Định)
Kinh tế
Người Ba Na sinh sống nhờ nông nghiệp, chủ yếu là trồng rẫy.
Cùng với trồng trọt, từng gia đình thường có nuôi gia cầm, gia súc
như trâu, bò, dê, lợn, gà. Chó cũng được
nuôi nhưng không bị giết thịt. Hầu như mỗi làng đều có lò rèn. Một số nơi
biết làm đồ gốm đơn giản, phụ nữ dệt vải tự túc đồ mặc trong gia
đình. Đàn ông đan chiếu, lưới, các loại gùi, giỏ, mủng... Việc mua bán theo
nguyên tắc hàng đổi hàng, xác định giá trị bằng gà, rìu, gùi thóc, lợn
hay nồi đồng, ché, chiêng, cồng, trâu v.v..
Văn hoá
Nhạc cụ đa dạng: cồng, chiêng kết cấu đa dạng,
đàn: t'rưng, brọ, khinh khung, gôông, klông pút, kơni, kèn: tơ nốt, arơng,
tơ tiếp,... Nghệ thuật chạm khắc gỗ phát triển. Trong kho tàng văn
nghệ dân gian, còn phải kể đến các làn điệu dân ca, các điệu múa trong những
ngày hội hay các nghi lễ tôn giáo. Những hình thức trang trí sinh động trên nhà
rông và đặc biệt những tượng nhà mồ v.v... mộc mạc, đơn sơ, nhưng
tinh tế và sinh động như cuộc sống của người Ba Na.
Trang phục
Trang phục nam: nam giới Ba Na mặc áo chui đầu, cổ xẻ.
Đây là loại áo cộc tay, thân áo có đường trang trí sọc đỏ chạy ngang, gấu áo
màu trắng. Nam mang khố hình chữ T theo lối quấn ngang dưới bụng, luồn qua háng
rồi che một phần mông. Ngày rét, họ mang theo tấm choàng. Ngày trước nam giới
búi tóc giữa đỉnh đầu hoặc để xõa. Nếu có mang khăn thì thường chít theo kiểu đầu
rìu. Trong dịp lễ bỏ mả, họ thường búi tóc sau gáy và cắm một lông chim
công. Nam cũng thường mang vòng tay bằng đồng.
Trang phục nữ: Phụ nữ Ba Na ưa để tóc ngang vai, có khi
búi và cài lược hoặc lông chim, hoặc trâm bằng đồng, thiếc. Có nhóm không
chít khăn mà chỉ quấn bằng chiếc dây vải hay vòng cườm. Có nhóm như ở An Khê,
Mang Giang hoặc một số nơi khác họ chít khăn trùm kín đầu, khăn chàm quấn gọn
trên đầu. Trước đây, họ đội nón hình vuông hoặc tròn trên có thoa sáp ong để khỏi
ngấm nước, đôi khi có áo tơi vừa mặc vừa che đầu. Họ thường đeo chuỗi hạt cườm ở
cổ và vòng tay bằng đồng xoắn ốc dài từ cổ đến khủy tay (theo kiểu hình nón cụt).
Nhẫn được dùng phổ biến và thường được đeo ở hai, ba ngón tay. Tục xả tai phổ
biến vừa mang ý nghĩa trang sức vừa mang ý nghĩa tín ngưỡng của cộng đồng. Hoa
tai có thể là kim loại, có thể là tre, gỗ. Tục cà răng mang theo quan niệm của
cộng đồng hơn là trang sức. Phụ nữ Ba Na mặc áo chủ yếu là loại chui đầu, ngắn
thân và váy. Áo có thể cộc tay hay dài tay. Váy là loại váy hở, thường là ngắn
hơn váy của người Ê Đê, ngày nay thì dài như nhau. Quanh bụng còn đeo những
vòng đồng và cài tẩu hút thọc vào đó.
Về tạo hình áo váy, người Ba Na không có gì khác biệt mấy
so với dân tộc Gia-rai hoặc Ê-đê. Tuy nhiên, nó khác nhau ở
phong cách mỹ thuật trang trí hoa văn, bố cục trên áo váy của người Ba Na. Theo
nguyên tắc bố cục dải băng theo chiều ngang thân người, dân tộc Ba Na dành phần
chính ở giữa thân áo và váy với diện tích hơn một nửa áo, váy cũng như hai ống
tay để trang trí hoa văn (chủ yếu là hoa văn với các màu trắng đỏ), nền chàm
còn lại của áo váy không đáng kể so với diện tích hoa văn. Thắt lưng váy được dệt
thêu hoa văn và tua vải hai đầu, được thắt và buông thõng dài hai đầu sang hai
bên hông.
Vi Đức Hồi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét