Từ xa xưa, hình thức canh tác của người
Thái luôn luôn đan xen giữa làm ruộng nước và phát nương làm rẫy. Khi lúa nếp
nương được gặt về và giã thành gạo trắng, người Thái dùng chõ hông lên thành
cơm xôi, họ đựng cơm xôi vào trong các vật dụng đan bằng mây- gọi là “ẹp khàu”.
“ẹp khàu” có cấu tạo đặc biệt gồm hai ngăn đựng khác nhau và kích cỡ to nhỏ gần
bằng nhau, cho phép khi đựng cơm xôi ở độ vừa phải, hai ngăn “ẹp” có thể úp
khít vào nhau như đậy nắp.
Mỗi ngăn của “ẹp khàu” lại được đan bằng hai lớp mây
tách biệt, tạo ra một khoảng không khí ngăn cách việc thoát nhiệt ra bên ngoài,
vừa giữ cho cơm xôi nóng ấm được lâu, vừa để cho không khí lưu thông qua để
tránh cho cơm xôi bị hấp hơi chóng nhão… Khi ăn cơm xôi, cơm được vắt thành từng
nắm và chấm với loại “chẻo”- một loại muối vừng đặc biệt do người Thái tự chế
biến, và cũng có nhiều món “chẻo” khác nhau.
Thế nhưng điều đó đã không làm cho văn
hóa dùng đũa trở nên xa lạ đối với người Thái. Trong tục ngữ ca dao người Việt,
có thể bắt gặp các câu thành ngữ, tục ngữ nói về đôi đũa, ví như: Vơ đũa cả nắm; Đũa mốc chòi mâm son; So bó đũa chọn cột cờ… Còn đối với người Thái, đôi đũa không
đơn thuần chỉ là vật dụng phục vụ cho việc ăn uống mà nó còn thể hiện một nét
tâm linh rất đậm trong sinh hoạt hàng ngày, và trong văn hóa tín ngưỡng của cộng
đồng.
Trong cuộc sống ngày nay, người Thái đã
có nhiều đổi thay về kiến trúc, trang phục và cả thay đổi về… đôi đũa trong mâm
cơm. Nhà sàn hiện nay mặc dầu vẫn được người Thái coi như nét văn hóa truyền thống
và cố gắng níu giữ, nhưng nhà sàn chỉ còn thích hợp với một số người có khả
năng về kinh tế. Quần áo dệt may theo cách thức công nghiệp tiện lợi và bền hơn
váy áo sản xuất từ bông vải tự trồng và tự dệt… Còn đôi đũa dùng trong mâm cơm
đa phần là những đôi đũa được chế tác từ máy móc, tuy thế những đôi đũa do các
cụ già tự vót và mang ra chợ bán vẫn tiêu thụ điều đặn ở một mức độ nhất định…
Ngày nay người Thái hầu như quanh năm cũng trồng lúa tẻ và sử dụng cơm tẻ như
người Kinh; trong mâm cơm cũng luôn có các món canh, món xào… và việc sử dụng
đũa đã như là một việc đương nhiên…
Dễ nhận thấy câu thành ngữ Đũa mốc chòi mâm son thể
hiện sự chênh lệch, khập khiễng trong vai vế về quan hệ hôn nhân, trai gái-
trong đó hình ảnh đôi đũa (mốc) bị chê là không tương xứng với một cái mâm đẹp
(mâm son)… Còn trong lời hát bày tỏ tình cảm của các chàng trai người Thái lại
dùng đôi đũa để so sánh và tôn vinh vẻ đẹp của người bạn tình. Hãy nghe lời họ
hát trong đêm giao duyên “Quam púc xáo” (đánh thức bạn tình):
Làn da em như là trứng bóc
Như là cánh hoa bưởi Mường
Thanh
Dáng em như đôi đũa ngà đũa ngọc
Khảm vàng dát bạc lung linh…
Trong mâm cỗ cúng tổ tiên ngày lễ tết;
trong lễ buộc chỉ cổ tay (hằng vắn), hoặc trong cả các dịp lễ “xăng khan” hay
“xên bản, xên mường”, các thầy cúng hoặc thầy mo đứng ra hành lễ nhất thiết
không được bỏ qua mấy lời cúng mang vẻ tôn vinh đối với những đôi đũa quý được
lựa chọn dùng trong mâm cúng:
Mí tấng thù mạy hịa mạy hàng
pong bảng
Thù mạy hốc mạy xáng pong nen
pong xừ.
Tạm dịch: “Đũa này vót từ cây nứa cây
dang ống đẹp,
Vót nên từ cây mạy hốc, mạy xang (thuộc
họ tre) ống thẳng ống thon”.
Đặc biệt với mâm lễ buộc chỉ cổ tay cho
một người cụ thể, việc lấy đũa đặt vào mâm cúng được người thân nhất của người
đó nắm lấy theo kiểu hú họa (chỉ trong một lần) số đũa đang có trong ống đũa, nếu
đũa không bị lẻ đôi mới được tiến hành cúng lễ; trường hợp ngược lại thì phải
cho một người thân khác đến chọn cho đến lúc bằng được mới thôi. Việc chọn được
số đũa không bị lẻ đôi được coi là sự thể hiện một “thông điệp bí ẩn” của hồn
vía, rằng hồn vía của người được làm vía đã sẵn sàng để tham gia trong lễ cúng
vía.
Trong các câu chuyện cổ tích mà ta từng
được nghe kể trong thời thơ ấu, thể nào cũng có những thầy phù thủy với những
đôi đũa thần, đũa phép... Các thầy mo của người Thái khi tiến hành làm các lễ
cúng cũng có ít nhất là chục đôi “đũa phép”. Thực ra đấy là những đôi đũa “bắt
quyết” của họ. Loại đũa này nhỏ và dài hơn các loại đũa thông thường, được làm
bằng gỗ mun, bằng sừng hoặc các loại vật liệu quan trọng khác (những vật liệu
này có lúc cũng mang tính bí hiểm và có thể trấn áp tà ma). Các thầy mo sử dụng
loại đũa này để “bắt quyết” trong việc mo của họ, giúp cho họ “giải mã” được
thông tin liên quan đến việc mo, chứ không bao giờ dùng đũa này để ăn cơm...
Khi làm việc mo đến công đoạn cần hỏi đến ý kiến của thần linh chẳng hạn, thầy
mo xốc xốc ống đũa quyết, chọn lấy một phần hú họa trong số đó rồi kẹp từng đôi
vào giữa các kẽ tay. Làm vài ba lượt như thế, theo một cách tính riêng của họ,
thầy mo đó sẽ biết được ý kiến/ ý nguyện của thần linh hoặc kết quả của việc
mo, nếu chưa trọn vẹn thì phải đọc lại lời cầu khấn, bổ sung các lễ vật còn thiếu,
hoặc tăng thêm số lương các lễ vật đã có, hoặc v.v…, cho đến lúc hiệu quả việc
mo được coi là trọn vẹn thì thầy mới đưa ra lời phán bảo của mình…
Còn trong đám ma, bát cơm cúng cho người
vừa chết được đặt ngay phía đầu quan tài với một đôi đũa duy nhất cắm thẳng đứng
ngay giữa lòng bát cơm. Một mâm cúng định riêng cho người đã qua đời nhưng chưa
được làm lễ xếp vào hàng ngũ tổ tiên cũng chỉ dùng một đôi đũa. Vậy nên trong một
gia đình người Thái, khi dọn cơm cho bất cứ ai, dù chỉ có một người ngồi ăn thì
cũng phải đặt trong mâm từ hai cái bát, hai đôi đũa trở lên để tránh kiêng kị.
Dễ nhận thấy, cách sử dụng đối với một
đôi đũa giản đơn trong gia đình cùng với cách kết gắn ý nghĩa của chúng với những
lời hát giao duyên, với các lễ cúng và sinh hoạt tâm linh của người Thái đã thể
hiện một nhân sinh quan và vũ trụ quan của cộng đồng; thể hiện được nét văn hóa
độc đáo luôn được lưu truyền và hàng ngày vẫn tiếp tục hiện diện trong cuộc sống
sinh hoạt của người Thái hôm nay. Nắm bắt được thêm những nét độc đáo trong
“kho kiến thức” về tập tục riêng của một cộng đồng (trong đó có cả người Thái)
sẽ tìm ra cách hòa nhập tốt nhất với đồng bào, phát huy những mặt tích cực, bài
trừ các mặt tiêu cực, góp phần làm cho cuộc sống người dân trong các bản mường
luôn được bình an, no ấm./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét